Tam Tự Kinh: Đọc sách luận bút (17)

Tam Tự Kinh - tập 17: Hữu Liên Sơn, Hữu Quy Tàng
Tam Tự Kinh – tập 17: Hữu Liên Sơn, Hữu Quy Tàng

Bài 17

Nguyên văn

有連山(1),有歸藏(2),
有周易(3),三易(4)詳(5)。
有典謨(6),有訓誥(7),
有誓命(8),書(9)之奥(10)。

Bính âm

有(yǒu)              連(lián)               山(shān),           有(yǒu)              歸(guī)             藏(cáng),
有(yǒu)              周(zhōu)             易(yì),                三(sān)              易(yì)               詳(xiáng)。
有(yǒu)              典(diǎn)              謨(mó),             有(yǒu)              訓(xùn)            誥(gào),
有(yǒu)              誓(shì)                命(mìng),              書(shū)             之(zhī)             奥(ào)。

Chú âm

有(一ㄡˇ)          連(ㄌ一ㄢˊ)          山(ㄕㄢ),
有(一ㄡˇ)          歸(ㄍㄨㄟ)            藏(ㄘㄤˊ),
有(一ㄡˇ)          周(ㄓㄡ)                易(一ˋ),
三(ㄙㄢ)           易(一ˋ)                   詳(ㄒ一ㄤˊ)。
有(一ㄡˇ)          典(ㄉ一ㄢˇ)           謨(ㄇㄛˊ),
有(一ㄡˇ)          訓(ㄒㄩㄣˋ)           誥(ㄍㄠˋ),
有(一ㄡˇ)          誓(ㄕˋ)                   命(ㄇ一ㄥˋ),
書(ㄕㄨ)           之(ㄓ)                     奧(ㄠˋ)。

Âm Hán Việt

Hữu Liên Sơn, Hữu Quy Tàng,
Hữu Chu Dịch, Tam dịch tường.
Hữu Điển Mô, Hữu Huấn Cáo,
Hữu Thệ Mệnh, Thư chi áo.

Tạm dịch

Có sách “Liên Sơn”, có sách “Quy Tàng”
Có sách “Chu Dịch”, ba Dịch rõ ràng.
Có thiên “Điển Mô”, có thiên “Huấn Cáo”
Có thiên “Thệ Mệnh”, Thượng Thư thâm áo.

Từ vựng

(1)Liên Sơn (連山): tên sách, tương truyền là do Phục Hy viết, có truyền thuyết khác cho rằng đây là cuốn sách bói thời nhà Hạ. Sách này lấy quẻ Cấn đứng đầu, Cấn tượng trưng cho núi, cho nên được gọi là Liên Sơn. Sách này đã thất truyền.
(2)Quy Tàng (歸藏): tên sách, tương truyền là do Hoàng Đế viết, có truyền thuyết khác cho rằng đây là cuốn sách bói của triều Thương. Sách này lấy quẻ Khôn đứng đầu, Khôn tượng trưng cho đất, đất là nơi chất chứa và sở hữu vạn vật, cho nên gọi là “Quy Tàng”. Hiện đã thất truyền.
(3)Chu Dịch (周易): tên sách, Dịch có nghĩa là biến hóa, khởi nguồn của Chu Dịch là Hà Đồ và Lạc Thư. “Sử Ký” viết rằng: “Văn Vương câu nhi diễn Chu dịch” (Văn Vương không thay đổi mà phát triển Chu Dịch), chính là nói Chu Văn Vương suy từ “Tiên thiên bát quái” của Phục Hy ra thành “Hậu thiên bát quái”, hiện nay gọi là Chu Dịch. Có thể dùng để xem bói.
(4)Tam Dịch (三易): chỉ ba cuốn “Liên Sơn”, “Quy Tàng” và “Chu Dịch”.
(5)Tường (詳): rõ ràng, nói rõ, kỹ càng đầy đủ.
(6)Điển Mô (典谟): tên một thiên của sách “Thượng Thư”. “Điển” là bài viết ghi chép lại những sự tích của các đế vương, như “Nghiêu Điển”; “Mô” là kể lại những lời bàn bạc kiến nghị của quần thần. như “Cao Đào Mô”.
(7)Huấn Cáo (訓誥): tên một thiên của sách “Thượng Thư”. “Huấn” là chỉ những lời dạy bảo, như “Y Huấn”; “Cáo” là chỉ những văn thư nhắc nhở răn đe hoặc thăm hỏi khích lệ, như “Khang Cáo”.
(8)Thệ Mệnh (誓命): tên một thiên của sách “Thượng Thư”. “Thệ” là chỉ những lời tuyên thệ, như “Cam Thệ”; “Mệnh” là chỉ những chiếu lệnh của quân vương. Như “Cố Mệnh”.
(9)Thư (書): chính là chỉ sách “Thượng Thư”.
(10)Áo (奥): ảo diệu tinh thâm.

Dịch nghĩa tham khảo

Ba cuốn sách “Liên Sơn”, “Quy Tàng” và “Chu Dịch” được gọi là “Tam Dịch”. “Tam Dịch” dùng hình thức “Quái” (quẻ) để nói rõ tường tận biến hóa của vạn sự vạn vật, đồng thời chỉ dạy con người làm thế nào để an thân lập mệnh.

Có Điển, Mô, có Huấn, Cáo, còn có Thệ, Mệnh đây là sáu loại hình thức văn chương và là chỗ đạo lý tinh hoa ảo diệu nhất của “Thượng Thư”.

Đọc sách luận bút

Trong bài trước, đã đề cập đến Tứ thư Lục kinh của Nho gia phải đọc, trong bài học này bắt đầu tập trung nói về “Dịch Kinh” và ““Thư Kinh”” trong Lục kinh. Điều đáng chú ý là trình tự của sáu bộ kinh được giải thích ở đây. Rõ ràng “Dịch Kinh” được đặt lên hàng đầu, tức là vị trí thứ nhất của Lục kinh. Vì sao như vậy? “Dịch Kinh” không phải là học thuyết của Đạo gia sao? Tại sao lại đặt nó ở vị trí đầu tiên?

Thực ra trong bài trước đã nói, trước thời Khổng Tử thì không có trường phái Nho gia, những Nho giả trước thời Khổng Tử kỳ thực là những người ở nhiều thế hệ phụ trách giáo dục con em quý tộc và các hoạt động cúng tế trọng đại của quốc gia. Là những người chỉnh lý, người kế thừa và người giáo dục văn hóa thời cổ đại. Vì vậy, họ thông thạo văn hóa cổ đại, Khổng Tử cũng là kế thừa sứ mệnh của một dòng họ Nho gia. Trên thực tế là chỉnh lý lại lần nữa các sách cổ văn hóa và giáo dục cổ đại.

Dân tộc Trung Hoa được gọi là con cháu Viêm Hoàng, cũng chính là con cháu của Thần Nông và Hoàng Đế. Thần Nông đã nếm trăm loại thảo mộc để phân biệt ra thảo dược và độc dược. Hoàng Đế là ông tổ của Trung y đã viết ra sách “Hoàng Đế Nội Kinh”, đã trở thành bảo điển của y thuật trong mấy nghìn năm, y lý cơ bản của nó chính là lý âm dương của “Dịch Kinh”. Cho rằng cơ thể con người là một tiểu vũ trụ, muốn khỏe mạnh và trường thọ thì phải thuận theo đạo tự nhiên, hết thảy sự vật đều do âm dương tạo thành, nếu âm dương được điều hòa và cân bằng thì vạn vật sinh cơ bừng bừng. Cơ thể con người cân bằng âm dương thì sẽ không có bệnh tật, âm dương mất cân bằng thì sẽ có thiên tai và nhân họa, bên trong cơ thể con người cũng vậy, mất cân bằng sẽ sinh bệnh. Trước tiên xem trọng dưỡng sinh, sau mới là trị bệnh, bảo trì cân bằng âm dương trong cơ thể là cơ bản của mọi bệnh lý (nguyên lý và quá trình phát triển, phát sinh của căn bệnh) và là mục đích cần đạt được khi trị bệnh. Vì vậy, văn hóa người Trung Quốc xưa, từ y thuật, nấu ăn cho đến trị quốc, đều là một đạo lý, xuất phát từ văn hóa tu Đạo của các bậc đế vương thời thượng cổ, đều không thể tách rời đạo lý của “Dịch Kinh”.

Phục Hy là thủy tổ của người Trung Hoa, là người đứng đầu Tam Hoàng (Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế), là tổ của “Dịch Kinh”, và vị đế vương thời thượng cổ khai sáng ra nền văn hóa Thần truyền Hoa Hạ cổ xưa. Ông thông tỏ lý của vũ trụ thiên địa, lưu lại “Liên Sơn” là sách dịch kinh cổ xưa nhất để hỗ trợ các vị đế vương sau này quản trị bách tính thiên hạ. Vì vậy, nó là yếu điển trị quốc, không thể không biết.

Thông qua việc học tập “Dịch Kinh”, người ta có thể nắm bắt được đạo biến hóa của vạn sự vạn vật, cũng biết được cách an thân lập mệnh. Đối với người trị quốc và làm quan, trước hết phải thấu hiểu kiến thức và đạo lý, vì vậy mà “Dịch Kinh” là tác phẩm đứng đầu Lục Kinh.

Tiếp theo chính là “Thư Kinh”, cũng gọi là “Thưọng Thư”, nhất định phải hiểu các dạng văn thư này và nắm vững được cách dùng ảo diệu của nó mới có thể phụ trợ bậc đế vương, hay quân vương trị lý thiên hạ và quốc gia. Ví dụ như khởi thảo chiếu lệnh, chế định quốc sách, ghi chép sách sử, chính sự (việc quốc gia) nào mà không cần ghi chép và sử dụng văn thư đâu? Các loại chính sự cần phải có thể loại văn chương, vận dụng ảo diệu, đều phải học tỏ tường mới có thể phụ tá chính sự, quản lý bách tính.

Nói thẳng ra, giáo dục của Nho gia là kế thừa kiến thức cổ xưa của Đạo gia, bồi dưỡng nên nhân tài trị quốc tinh thông, và Khổng Tử chính là đã tuân theo trí tuệ cổ xưa, đưa đức hạnh của bậc quân tử lên hàng đầu. Trong thời kỳ loạn thế Xuân Thu Chiến Quốc, ông đã cố gắng hết sức để quy chính đạo đức đang bị bại hoại, cho nên ông chu du các nước, tuyên dương đạo trị quốc của bậc quân tử, thực tế là phục hưng truyền thống của bậc đế vương cổ xưa. Ông không phân biệt thân phận địa vị giàu sang để tuyển nhận đệ tử, thiết lập nền giáo dục, đào tạo quân tử chân chính, chỉ mong đức hóa thiên hạ (dùng đạo đức giáo hóa thiên hạ), bách tính không còn lo lắng, thiên hạ sẽ thái bình. Đây mới là mục đích giáo dục của Khổng Tử.

Câu chuyện: Hai giấc mơ của tú tài

Có một tú tài lần thứ ba lên kinh ứng thí, trước hôm thi hai ngày anh ta có hai giấc mơ. Giấc mơ thứ nhất là mơ thấy mình trồng cải trắng trên tường; giấc mơ thứ hai là mơ thấy mình đội mũ rộng vành lúc trời mưa mà trên tay lại còn cầm dù che.

Tú tài nghĩ hai giấc mơ này có lẽ còn có ý nghĩa sâu xa gì khác nữa, thế là anh ta liền nhanh chóng đi tìm thầy bói để giải mộng. Thầy bói vừa nghe thấy, liên tiếp vỗ đùi nói: “Anh hãy về nhà đi thôi. Anh nghĩ xem, trên tường cao mà đi trồng rau chẳng phải là phí công hay sao? Đội mũ rộng vành rồi mà lại còn che dù chẳng phải làm điều thừa hay sao?”

Tú tài vừa nghe xong, nản lòng thoái chí, quay lại quán trọ thu dọn đồ đạc chuẩn bị về nhà. Chủ quán trọ thấy vậy lấy làm lạ bèn hỏi: “Ngày mai anh mới thi cơ mà, sao hôm nay đã về quê vậy?”

Tú tài nói rõ đầu đuôi xong, chủ quán trọ lại vui mừng: “Tôi lại thấy khác, lần này anh nhất định phải ở lại đây để thi. Anh nghĩ xem, trên tường mà trồng rau chẳng phải là trồng được cao hay sao? Đội mũ rộng vành lại che dù chẳng phải nói rõ rằng anh có phòng bị trước sẽ tránh được tai họa sao?

Tú tài nghe xong, cảm thấy rất có lý, thế là tinh thần phấn chấn tham gia kỳ thi, quả nhiên đã đỗ Thám hoa (bậc học vị thời xưa dưới Trạng nguyên và Bảng nhãn).

Có thể thấy được, cùng một thiên tượng mỗi người sẽ giải thích khác nhau, không có đạo hạnh chân chính, sẽ đọc không hiểu “Dịch Kinh”, nhất định phải là người tu đạo có trình độ, mới có thể vận dụng tự nhiên. Nhưng là đạt tới trình độ này, cũng sẽ không sử dụng tùy tiện để can thiệp vận mệnh của con người, mà là sẽ làm thuận theo thiên ý.

Cổ nhân hiểu được thiên cơ là không thể tiết lộ, mỗi người chính là trong thật thật giả giả dựa vào ngộ tính mà đi con đường của mình. Cổ nhân đã hiểu được không thể trái thiên ý, cũng hiểu được thiên cơ bất khả lộ. Lúc vận dụng “Dịch Kinh”, làm theo tư tưởng ‘mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên’. Cho nên dùng thiên tượng phán đoán cát hung rồi, cũng thủy chung ở trong mê, người ta sẽ căn cứ vào lĩnh ngộ của mình mà xử lý, mặc kệ suy đoán đúng sai, chỉ cần ôm tâm làm mà không cầu, làm hết sức mình, thái độ nghe theo thiên mệnh là tốt rồi. Cho nên, sự lựa chọn của tú tài là đúng, khi chân tướng không cách nào nhận định, chỉ để ý làm việc mà một người tốt nên làm là được. Quan trọng hơn là tự hỏi mình làm sao không thẹn với tâm, không cần để ý đến kết quả.

Tất nhiên thiện ác hữu báo, trời định vận mệnh của con người, đây cũng có ý là nhân mệnh họa phúc mà trời định đều căn cứ trên hành vi thiện ác của bản thân con người mà quyết định. Do đó, làm hết sức mình, nghe theo thiên mệnh, tích đức được nhiều mới là căn bản, không cần quá chấp nhất lo lắng vào được mất vinh nhục của mình.

Cũng chính nguyên nhân này mà Nho gia không quá liên quan đến tu đạo ở cao tầng, mà chỉ giảng ra cái lý của tầng thứ con người. Chỉ cần làm người nhân đức, liền sẽ có thiện báo, vận mệnh tự nhiên sẽ chuyển biến tốt đẹp, bởi vì đây là cách duy nhất để cải biến vận mệnh họa phúc do trời định. Cho nên, Khổng Tử chỉ giảng đạo làm người như thế nào, làm người cao thượng ra sao. Đem cái này đặt ở vị trí đầu tiên.

Tác giả: Lưu Như

Nguồn ChanhKien.Org

Xem Tam Tự Kinh – Tập 18: Tăng Tử thay chiếu

Video tham khảo: Bùi Độ trả báu vật

Tam Tự Kinh tập 18 - Bùi Độ trả báu vật
Video Tam Tự Kinh – Tập 18 – Bùi Độ trả báu vật (Nguồn Chánh Kiến)

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

5 1 vote
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
1 Comment
Inline Feedbacks
View all comments
Nguyễn Quang
Nguyễn Quang
2 years ago

Cảm ơn các bạn đã cho người xem những câu chuyện vô cùng uyên bác và quý giá. Kính hỏi nếu mọi người có thể chuyển ‘hình tròn’ bình luận xuống thấp hơn hoặc sang bên phải thì tốt vì người đọc, xem cảm thấy bị vướng. Xin cảm ơn!

1
0
Bình luậnx
()
x