Nghiêu Thuấn Vũ – Chương 2: Thánh vương hạ thế khai Nghiêu thiên

Chân dung Nghiêu Thuấn Vũ
Chân dung Nghiêu Thuấn Vũ

Nhân vật anh hùng thiên cổ – Nghiêu Thuấn Vũ

Chương 2: Thánh vương hạ thế khai Nghiêu thiên

1. Thánh vương hạ thế

 “Sử Ký” ghi chép, cha của Đế Nghiêu là Đế Cốc, ông có bốn người phi tử là Khương Nguyên, Giản Địch, Khánh Đô và Thường Nghi.

Khương Nguyên là chính phi của Đế Cốc, Khương Nguyên ướm vào vết chân người khổng lồ, thế rồi bà thụ thai sinh được người con trai đặt tên là Khí (tức Hậu Tắc). Ông chính là tổ tiên của triều đại nhà Chu.

Giản Địch nuốt trứng sống mà sinh ra Tiết, Tiết chính là tổ tiên của triều đại nhà Thương.

Khánh Đô, họ Trần Phong sinh ra ở dưới núi Y Kỳ. Truyền thuyết kể rằng Khánh Đô là con gái của một vị Thần Tiên. Một ngày nọ, trời nổi sấm sét đánh vào người vị Thần Tiên đến chảy máu, máu chảy đến tảng đá lớn. Sau đó máu này hóa thành một đứa trẻ sơ sinh chính là Khánh Đô. Sau khi lớn lên Đế Cốc cưới nàng làm phi tử, và nàng cũng chính là mẹ của Đế Nghiêu.

Phi tử thứ tư là Thường Nghi, bà sinh ra Đế Chí, Đế Chí là con trai trưởng của Đế Cốc. Sau này Thường Nghi còn hạ sinh một người con gái.

Theo “Trúc Thư Kỷ Niên” (Biên niên sử viết trên thẻ tre) có ghi chép: Khánh Đô là mẫu thân của Nghiêu Đế, bà được sinh ra ở nơi hoang dã, khi đó thường có mây màu vàng bao phủ bên trên. Sau khi lớn lên, bà quan sát ở ba con sông, thường có rồng đi theo. Một ngày, rồng mang đến một bức tranh, viết rằng: “Diệc thụ thiên hữu” (Được trời ban phước). Phía dưới còn có bảy chữ “Xích đế khởi thành thiên hạ bảo”  (Xích đế hưng khởi, trở thành báu vật của thiên hạ): Lông mày 8 màu sắc, tóc mai dài bảy thước hai tấc, mặt trên hẹp dưới đầy, chân bước sao Dực Tú. Có âm phong bốn phương hợp lại, xích long cảm thán. Khánh Đô hoài thai mười bốn tháng sinh ra Nghiêu đế ở Đan Lăng, giống như miêu tả trong bức họa. Hai chân có hai mươi hai nốt ruồi đỏ, tựa như chòm Dực Tú trên bầu trời vậy. 

Đây có thể gọi là sự ra đời của Xích đế còn được gọi tên là “Phóng Huân”. Thụy hiệu là Nghiêu đế, theo Thụy pháp ghi chép, ông là vị đế vương lương thiện tài ba hiểu rộng và là vị vua chính nghĩa có phẩm hạnh đạo đức nên được gọi là Nghiêu.

Sau khi sinh ra, Nghiêu đế và mẹ ở cùng với ông ngoại Y Kỳ Hầu, do đó ông mang họ Y Kỳ, hoặc Y.

Nghiêu đế “Thân dài mười thước”. Theo “Xuân Thu Nguyên Mệnh Bao” (thời Tây Hán) viết rằng: “Lông mày Nghiêu dài tám thải, thông minh sáng sủa. Trải qua năm tháng, tuyền cơ ngọc hành”. Chính là nói lông mày của Nghiêu đế có tám ánh sắc hào quang, ông thông hiểu tương lai, thiên tượng và lịch số, hiểu rõ sự vận hành của các vì sao. Trong “Xuân Thu Vĩ – Hợp Thành Đồ”nói rằng trán ông trông giống như vầng thái dương.

Hình vẽ vua Nghiêu thời nhà Thanh (Phạm vi công cộng)
Hình vẽ vua Nghiêu thời nhà Thanh (Phạm vi công cộng)

2. Đế Chí kế vị

Lúc tuổi về già Đế Cốc chuyên tâm tìm hiểu về tu Đạo, nên ông phải cân nhắc thật kỹ lưỡng ai trong bốn người con sẽ thay ông kế thừa ngôi vị. Ông bắt đầu so sánh bốn người con trai, xét về tài đức, thì có Nghiêu và Tiết, bàn về nhân cách những người mẹ sinh thành các con thì có Khí, nếu nói về tuổi tác thì có Chí, nhưng tài đức của Chí lại không bằng các huynh đệ của mình. Đế Cốc quyết định dùng quẻ bói để lựa chọn, kết quả, bốn người con đều có khả năng thống trị thiên hạ. Cuối cùng Đế Cốc quyết định so tuổi tác để chọn, vậy nên Chí là người được chọn cho ngôi quân vương.

Sau khi Đế Cốc qua đời Chí kế thừa ngôi vị, hiệu là Đế Chí.

Năm Nghiêu 13 tuổi, ông được phong ở đất Đào. Ông là người tài giỏi hiếu học, nổi tiếng xa gần với sở trường chế tác các loại dụng cụ gốm sứ. Nghiêu là người hiền đức và tài năng, ông quản lý chăm lo công việc của mình vô cùng tốt.

Năm Nghiêu 15 tuổi ông lại được phong ở đất Đường, làm Đường Hầu, nhận mệnh trợ giúp quản lý triều chính, ông và thị tộc của mình được gọi là “Đào Đường thị”. 

Đế Chí chưa đủ tài đức, thường kết thân với một số kẻ không lương thiện, cùng nhập bọn với nhóm “Tam hung”. Nhóm “Tam hung” gồm ba kẻ xấu xa, là Khổng Nhâm, Hoan Đâu, Cổn.

Khổng Nhâm là kẻ luôn nói những lời lẽ sắc bén giả dối, bề ngoài tỏ ra kính cẩn hiền hòa, nhưng trong nội tâm lại cay nghiệt ác độc, thường cảm thấy vui sướng khi người khác gặp chuyện không may, là kẻ tàn bạo chẳng còn nhân đức, bại hoại gia phong, loạn thần phản quốc. Cổn là kẻ học rộng tài cao, giỏi về xây dựng, nên luôn tự cho mình là đúng, vô cùng bảo thủ và cố chấp.

Đế Chí phong chức cho Hoan Đâu làm Tư Đồ, quản lý chung chính sự; phong Khổng Nhâm làm Cộng Công, làm tổng quản các công trình; phong Cổn làm Tư Không, chuyên quản lý về đường thủy, đường bộ và trị thủy. Hoan Đâu và Khổng Nhâm thường dẫn dụ Đế Chí ăn chơi rượu chè, không để ý tới triều chính, chẳng quan tâm trăm quan, không thương xót con dân trăm họ, dân chúng nhiều lần óan thán, thiên tai không ngừng, mọi người nói đây là do thiên tử vô đạo mà gây ra.

3. Bình định họa loạn

Đế Chí thất đức, dẫn tới một vài bộ lạc thiểu số phía Đông nhân cơ hội lần lượt nổi dậy, gây rối loạn đất nước. Theo “Hoài Nam Tử – Bản Kinh Huấn”: Vào thời Nghiêu những thủ lĩnh bộ tộc như Áp Du, Tạc Xỉ, Cửu Anh, Đại Phong, Phong Hi, Tu Xà đều gây họa hại cho dân.

Theo “Sơn Hải Kinh – Hải Nội”có ghi chép, lúc đó Thiên đế là Đế Tuấn, ngài thấy rằng thế gian sắp phải hứng chịu nạn lớn, liền phái Hậu Nghệ hạ thế trợ giúp nhân loại: “Đế Tuấn ban cho Nghệ cung đỏ và mũi tên trắng, để cứu giúp quốc gia ở dưới. Nghệ ban đầu trải qua trăm nạn ở hạ giới”.

Nghệ nhận mệnh cùng với Nghiêu tiến trận, Bắc trảm Tiết Thâu, Tây diệt Cửu Anh, Trung trừ Phong Hi, Nam giết Ba Xà, Đông bắn Đại Phong, sau đó giết Tạc Xỉ. Dẹp yên họa loạn, từ đó danh tiếng của Nghiêu nổi khắp thiên hạ, khắp nơi đều quy phục.

Đế Nghiêu, tranh lụa do họa sĩ Mã Lân thời nhà Tống thực hiện (Ảnh: Wikipedia)
Đế Nghiêu, tranh lụa do họa sĩ Mã Lân thời nhà Tống thực hiện (Ảnh: Wikipedia)

4. Nghiêu thuận theo mệnh trời kế thừa đế vị

Chư hầu bốn phương thấy rằng uy đức của Nghiêu ngày càng lớn mạnh, thế nên cũng muốn biểu thị sự ủng hộ ông lên ngôi đế vị. Đế Chí cũng cảm giác thấy mình không đủ tài đức sáng suốt như Nghiêu, vì vậy ông tại vị chín năm, sau đó hạ chiếu chỉ nhường ngôi, đem đế vị nhường lại cho Nghiêu.

Tương truyền Nghiêu gặp phải một giấc mộng kì lạ, mơ thấy mình đang dạo chơi trên núi Thái Sơn, đột nhiên xuất hiện một con thanh long, sau đó ông cưỡi rồng mà bay lên, hạ xuống đỉnh núi, ngẩng đầu nhìn lên, thấy cổng Thiên Cung mở toang, chỉ cách đỉnh đầu chưa đầy năm thước, hai tay ông nắm lấy cửa Thiên Cung, bước lên Thiên Thượng, cảm thấy ngân đài kim khuyết, ngọc vũ quỳnh lâu lộng lẫy huy hoàng.

Đế Nghiêu nối tiếp Đế Chí trở thành thiên hạ cộng chủ, định đô ở Bình Dương.

Sau khi Nghiêu đế kế thừa ngôi vị ông thường ra vào nhân gian tìm người hiền tài, trợ giúp đất nước. Nghiêu tìm đến Xích Tương Tử Dư, Phiệt Khanh, Vu Hàm… và mời họ vào triều nhậm chức, ngoài ra còn có Bách Thành Tử Cao, Trương Quả Lão… cùng tương trợ.

Nghiêu đến núi Cô Xạ Phần Thủy Bắc Ngạn, viếng thăm bốn vị Đạo sĩ tu luyện: Phương Hồi, Thiện Quyển, Phi Y (Bồ Y) và Hứa Do. Nghiêu dùng lễ đối đãi họ như trưởng lão, hay như học trò đến thăm hỏi thầy mà đối đãi lễ phép, khiêm tốn xin chỉ giáo. Nghiêu còn từng là học trò của thầy Doãn Thọ Tử.

Năm thứ năm thời Đế Nghiêu, có nước nam di Việt Thường phái sứ thần đến chúc mừng triều đình, cống tặng một con rùa lớn. Sứ giả nói rằng, con rùa này chính là rùa thần, nó đã sống thọ được một ngàn năm rồi, đường kính nó dài hơn ba thước, trên lưng rùa chằng chịt vết khắc khoa đẩu văn, ghi lại lịch sử nhân loại từ khi khai thiên tịch địa cho tới nay. Nghiêu đế hết sức vui mừng, mệnh lệnh sử quan ghi chép lại toàn bộ vào sách sử.

Đế Nghiêu đem thiên hạ chia làm chín châu (Cửu châu), định ra ngày đi tuần tra bốn phương, trưng cầu ý kiến của các chư hầu ở bốn phương, nhằm kiểm tra khả năng nắm quyền cai quản của các quan lại địa phương, lại cho người dựng “Báng Mộc” (bảng trách lỗi) thường lắng nghe nỗi lòng con dân trăm họ, hết lòng trị vì thiên hạ xã tắc.

“Sử Ký” ghi chép rằng: Nghiêu đế “Nhân đức như Trời, trí tuệ như Thần, ở gần như thấy mặt trời, từ xa trông như đám mây”. 

Nghiêu đế là vị vua nhân đức có tu dưỡng, kiến thức uyên bác, trí tuệ như một vị Thần, khi đến gần ông như vầng thái dương tỏa sáng khắp nơi, nếu nhìn về nơi xa thì ông như áng mây sáng lạn rực rỡ. Quyền quý nhưng chẳng ngạo mạn, Ông luôn tôn kính những người lương thiện đạo đức, tâm thường nghĩ đến con dân trăm họ, khiến cho cửu tộc trở nên thân thiết với nhau, trăm họ quy thuận. Ông là vị vua nhân từ sáng suốt, nhân đức mà đảm nhận sứ mệnh trời đất giao cho, trăm quan làm việc rõ ràng minh bạch không sai phạm. Các bộ lạc cũng đều cùng nhau sống chung hòa bình. 

Theo “Thuyết Uyển”: Nghiêu là người có chủ tâm vì thiên hạ. Gặp phải người đói khát, ông nói: “Là ta đã khiến ngươi sắp chết đói rồi!”; Gặp phải người đang rét lạnh, ông nói: “Là ta không cai quản tốt thiên hạ mới khiến ngươi rét lạnh”; Gặp phải kẻ phạm tội, ông nói: “Chính ta đã khiến anh ta phải đi ăn trộm”. Vua Nghiêu lấy lòng nhân từ mà gây dựng đức hạnh, dùng hiểu biết mà thay đổi mọi việc, trước chẳng tán thưởng mà khuyên người, không xử phạt mà giúp người sửa lỗi sai, đó cũng là đạo của Nghiêu đế.

Thiên hạ thái bình, có ông lão 80 tuổi vừa gõ vừa hát ca rằng: “Mặt trời mọc thì ta đi làm, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi, đào giếng mà uống, làm ruộng mà ăn, vua có sức gì giúp được ta đâu!”. 

Người xem than rằng: “Vĩ đại thay, đó là đức của vua Nghiêu đó”.

5. Hậu Nghệ bắn chín mặt trời

Lúc ấy nước Hoa Ấp báo rằng: Có một luồng khí đen đến từ mặt trời, vây quanh núi Thái Hoa đã mấy tuần rồi, sau đó trên núi Thái Hoa xuất hiện một vật, hình dáng giống rắn, có sáu chân, bốn cánh. Theo truyền thuyết, nếu thật sự thấy vật có hình dáng như vậy thì đó là điềm báo thiên hạ sắp có hạn hán lớn.

Sau đó nước Trác Lộc phương Bắc báo rằng: Khi Hoàng Đế chiến đấu với Xi Vưu, Nữ Bạt (Thần nắng hạn) trợ giúp Hoàng Đế phá vỡ “Trận mưa lũ” đã di chuyển về phía Nam, tiến vào Ký Châu, thế nên ở Ký Châu trời hạn hán không đổ mưa.

Tiếp theo, trên trời xuất hiện bốn mặt trời. Mọi người đều nói, Trời không thể có hai mặt trời, trong đó nhất định có ba cái là yêu tinh.

Vua Nghiêu mệnh lệnh Nghệ đi diệt trừ yêu tinh, trừ tai họa cứu muôn dân. Nghệ lo lắng sự việc này không biết đúng sai thật giả thế nào, nếu như bắn hạ mặt trời thật thì chẳng phải tội lớn hay sao? Đế Nghiêu nói: “Mặt trời thật sự thì không thể bắn hạ được”.

Cuối cùng, trên bầu trời xuất hiện cùng lúc mười mặt trời. Sau đó Nghệ lấy cung tiễn ra, đi tới giáo quân tràng, các mũi tên được bắn liên tục lên trời. Đợi hồi lâu, nhưng chẳng thấy mặt trời nào rơi xuống.

Đế Nghiêu lo lắng bất an. Xích Tương Tử Dư nói: “Hồng Nhai Tiên nhân có nói rằng, bệ hạ trước tiên trai giới, thành kính cầu khẩn thiên địa tổ tông. Mặc dù Nghệ có mũi tên Thần, nhưng còn phải dựa vào Thánh chủ phải có tấm lòng chân thành”. Đế Nghiêu tắm gội trai giới trong ba ngày, cúng tế khẩn cầu thiên địa.

“Sơn Hải Kinh – Đại Hoang Nam Kinh” có chép: Ngoài biển Đông Nam, giữa là Cam Thủy, Đế Tuấn cùng thê tử mình là Hi Hòa sinh ra mười mặt trời. Truyền thuyết kể rằng mười mặt trời đó chính là con của Thiên đế Đế Tuấn, tại Dương Cốc bên ngoài của vùng biển phương đông. Mười mặt trời cùng nhau bay lên bầu trời, cỏ cây khô héo, sông nước khô cạn, đất đai một mảnh khô cằn. Mọi người nóng đến nỗi không thể thở được.

Nghệ phụng mệnh đi tới núi Côn Lôn, ngửa mặt lên trời cầu khẩn, khuyên mặt trời hãy quay trở về, nhưng vẫn không có kết quả. Hậu Nghệ dùng thần tiễn, lần nữa bắn từng mũi tên lên, sau đó từng mặt trời rơi xuống. Cuối cùng, trên trời chỉ còn lại một mặt trời, thời tiết trở nên tươi sáng mát mẻ, âm dương được điều hòa.

6. Khai sáng lịch pháp, điều hòa bốn mùa âm dương

Thế gian thời kì thượng cổ, cần làm theo ý trời, quan sát thiên văn, thiên tượng, bốn mùa, điều hòa âm dương, cúng tế thiên địa là việc rất quan trọng, cũng là một phương cách câu thông giữa con người và Thần.

Khi Đế Nghiêu mới kế vị, bốn mùa không có, âm dương không cân bằng, thiên địa vận hành không có chu kỳ. Thế nên, phải quy chính lại sự vận hành của thiên địa theo trật tự, đó chính là lúc khai sáng lịch pháp. Nghiêu mệnh lệnh bốn người: Hi Trọng, Hi Thúc, Hòa Trọng, Hòa Thúc phân ra bốn phương nắm giữ các chức vụ. Bốn người họ hợp lại quan sát đo đạc thiên văn, trông coi thời tiết mùa vụ, quan trắc trời trăng sao và vạn vật sinh linh, điều chỉnh lại chính xác thời gian bốn mùa, lập ra lịch pháp, và hướng dẫn người dân trồng trọt vào các mùa vụ.

Lệnh cho Hi Trọng ở tại Dương Cốc hướng Đông, nghênh đón mặt trời mọc, quan sát phân biệt mọi thời khắc khi mặt trời đang lên. Thấy rằng ngày và đêm ngang bằng nhau, Điểu tinh là chòm sao phương Đông trong Nhị thập bát tú thường xuất hiện giữa lưng chừng trời vào lúc hoàng hôn, lúc này là mùa xuân giữa tháng hai, ngày nay gọi là tiết xuân phân.

Hi Thúc ở tại Giao Chỉ hướng Nam (Việt Nam ngày nay), quan sát phân biệt mọi thời khắc mặt trời mọc lên ở hướng nam. Nhận thấy rằng ngày dài hơn đêm, sao Hỏa – một trong 7 chòm sao trong Nhị Thập Bát Tú thuộc chòm sao Thanh Long phương đông dần thăng lên trên bầu trời phương nam, lúc này là giữa mùa hạ, ngày nay gọi là hạ chí (ngày dài nhất và đêm ngắn nhất trong năm).

Hòa Trọng ở tại Muội Cốc hướng tây, quan sát mọi thời khắc mặt trời lặn. Nhận thấy rằng thời gian ngày và đêm là bằng nhau, sao Hư – một trong 7 chòm sao trong Nhị Thập Bát Tú thuộc chòm sao Huyền Vũ phương Bắc xuất hiện ở lưng chừng trời phương nam khi hoàng hôn, lúc này vào giữa mùa thu, ngày này gọi là tiết thu phân.

Hòa Thúc ở phương bắc, quan sát sự vận hành của mặt trời ở hướng bắc. Thấy rằng thời gian ban ngày ngắn hơn đêm, sao Mão một trong 7 chòm sao phương Tây trong Nhị Thập Bát Tú thuộc chòm Bạch Hổ xuất hiện giữa lưng chừng trời phương nam, lúc này vào giữa mùa đông, ngày này gọi là đông chí. 

Căn cứ theo các quan sát đo đạc, vua Nghiêu đã định ra một năm có ba trăm sáu mươi ngày, bốn mùa xuân hạ thu đông, cứ ba năm sẽ có một tháng nhuận, dùng tháng nhuận để điều chỉnh lịch pháp cho phù hợp với thời tiết bốn mùa, và áp dụng hợp lí cho mùa vụ mỗi năm. “Thượng Thư – Nghiêu Điển” viết: “Một năm có 366 ngày, dùng tháng nhuận để điều chỉnh đặt ra 4 mùa, thành một năm”.

Theo “Tống Sách – Phù Thụy Chí” ghi chép lại: Có một loại cây cỏ sinh trưởng trên các bậc thềm nơi sân vườn, mùng một mỗi tháng bắt đầu ra lá, mỗi ngày mọc một lá, sau nửa tháng mọc mười lăm lá. Sang ngày thứ mười sáu thì mỗi ngày bắt đầu rơi một lá, đến cuối tháng thì rụng hết. Nếu như vào trúng tháng trăng non, thì đến ngày cuối cùng lá cây chỉ héo tàn chứ không rơi rụng. Đế Nghiêu cho là vô cùng hiếm thấy, nên gọi là “Minh giáp” (cỏ may mắn), hay còn gọi là “Lịch thảo”. Kết hợp Minh giáp để quan sát, và cuối cùng lấy 365 ngày làm một năm. Quan sát thiên văn, khí hậu, mùa vụ chiểu theo chu kỳ 365 ngày, theo như tính toán gần đến tháng nhuận, có thể trông thấy trăng non lớn hay nhỏ mà quyết định làm ra lịch pháp. Lịch pháp mới khớp với thời vụ và bốn mùa quanh năm, tiết khí được phân chia chính xác rõ ràng, cứ ba tháng được gọi là 1 quý, 12 tháng là một năm, một vòng quanh quay 365 ngày sẽ có một tháng nhuận, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu 29 ngày, một ngày chia thành 12 giờ, một giờ có 8 khắc, mỗi thời mỗi tiết đều có quy luật và chuẩn mực. Đến lúc này, bốn mùa đã được sắp xếp theo thứ tự.

7. Ngôi sao Cảnh hiện lên điềm lành

Dân gian có bài ca dao về thời kỳ của đế Nghiêu: “Kỳ nhân như thiên, kỳ trí như thần, như nhật ôn tâm, như vân cái địa, đế đức chiêu chiêu, phổ thiên đồng khánh…” (Nghiêu đế là vị vua nhân đức có tu dưỡng, kiến thức uyên bác, trí tuệ như một vị Thần, khi đến gần ông như vầng thái dương tỏa sáng khắp nơi, nếu nhìn về nơi xa thì ông như áng mây sáng lạn rực rỡ, khắp chốn mừng vui…).

Thuật dị ký ghi chép: “Nghiêu là vị quân vương nhân từ, mười ngày như một đều gặp may mắn tốt lành”. Đế Nghiêu dùng đức mà quản lý chính sự rõ ràng, thành tựu về văn hóa giáo dục, quân sự lớn mạnh, muôn dân an cư lạc nghiệp. Đức hạnh của đế Nghiêu đã cảm động đến Trời nên Trời giáng xuống mười điềm tốt lành cho Đế Nghiêu.

Rõ ràng nhất là ngôi sao Cảnh biểu hiện điềm lành. “Trúc Thư Kỳ Niên” ghi chép: Đế Nghiêu “năm thứ 42, sao Cảnh xuất hiện gần sao Dực”; “Vua Nghiêu tại vị năm thứ 17, sao Cảnh xuất hiện gần sao Dực”.

“Hán Thư – Thiên Văn Chí” ghi chép: “Sao Cảnh là sao đức, hình dáng nó bất định, thường xuất hiện ở nước có Đạo”.

Sách “Chính Nghĩa” viết: “Hình dáng sao Cảnh giống nửa vầng trăng, mọc vào cuối tháng để chiếu sáng trợ giúp trăng. Nó xuất hiện thì có nghĩa là vua có đức, là để chúc mừng bậc Thánh minh”.

Tôn thị thụy ứng đồ cũng viết: “Sao Cảnh xuất hiện khi vua không có lòng tư”.

Sao Cảnh là ngôi sao may mắn cát tường, khi quân chủ đức dày có đạo, không coi thiên hạ là của riêng thì sẽ cảm động Thượng Thiên, khi đó sao Cảnh mới xuất hiện. Sao Cảnh hình dáng tuy giống nửa vầng trăng, nhưng ánh sáng của nó sáng hơn trăng. Chòm sao Dực là một trong 28 chòm sao (nhị thập bát tú), bao gồm 22 ngôi sao, nằm ở phương Nam, màu đỏ. Có ghi chép cho rằng, vua Nghiêu là Thần của sao Dực. Hai lần sao Cảnh xuất hiện gần sao Dực là biểu thị vua Nghiêu là Thần đến thế gian.

Nguồn Epoch Times

Link bài dịch từ NTD Việt Nam

Xem tiếp Chương 3: Hồng hoang hạo kiếp

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

5 1 vote
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
1 Comment
Inline Feedbacks
View all comments
dream
dream
1 year ago

hay

1
0
Bình luậnx
()
x