Tam Tự Kinh: Đọc sách luận bút (20)

Tam Tự Kinh - tập 20: Tam Truyện giả, Hữu Công Dương
Tam Tự Kinh – tập 20: Tam Truyện giả, Hữu Công Dương

Bài 20

Nguyên văn

三傳(1)者,有公羊(2),
有左氏(3),有谷梁(4)。
經(5)既(6)明,方(7)讀子(8),
撮(9)其(10)要(11),記(12)其事。

Bính âm

三(sān)               傳(zhuàn)               者(zhě),             有(yǒu)               公(gōng)               羊(yáng),
有(yǒu)               左(zuǒ)                   氏(shì),               有(yǒu)               谷(gǔ)                   梁(liáng)。
經(jīng)               既(jì)                        明(míng),              方(fāng)             讀(dú)                   子(zǐ),
撮(cuò)               其(qí)                      要(yào),              記(jì)                   其(qí)                     事(shì)。

Chú âm

三(ㄙㄢ)                 傳(ㄓㄨㄢ`)               者(ㄓㄜˇ),
有(一ㄡˇ)                公(ㄍㄨㄥ)                羊(一ㄤ),
有(一ㄡˇ)                左(ㄗㄨㄛˇ)               氏(ㄕ`),
有(一ㄡˇ)                谷(ㄍㄨˇ)                   梁(ㄌ一ㄤ)。
經(ㄐ一ㄥ)              既(ㄐ一`)                   明(ㄇ一ㄥ),
方(ㄈㄤ)                  讀(ㄉㄨ)                    子(ㄗˇ),
撮(ㄘㄨㄛ`)             其(ㄑ一)                    要(一ㄠ`),
記(ㄐ一`)                 其(ㄑ一)                    事(ㄕ`)。

Âm Hán Việt

Tam Truyện giả, Hữu Công Dương,
Hữu Tả Thị, Hữu Cốc Lương.
Kinh ký minh, Phương độc Tử,
Toát kì yếu, Kí kì sự.

Tạm dịch

“Tam Truyện” ấy: có “Công Dương”,
Có “Tả Thị”, có “Cốc Lương”.
Kinh đã rõ, mới đọc Tử,
Trích điểm chính, nhớ sự việc.

Từ vựng

(1)Tam Truyện (三傳): “Tả Truyện”, “Công Dương Truyện”, “Cốc Lương Truyện” hợp lại gọi là “Xuân Thu Tam Truyện”, gọi tắt là “Tam truyện”. Giả (者): trợ từ.
(2)Công Dương (公羊): gọi tắt của “Công Dương Truyện”. Đây là cuốn sách do Công Dương Cao thời Chiến quốc viết, đến thời Hán Cảnh Đế do Công Dương Thọ và Hồ Mưu Sinh viết lại và định bản. Sách này dùng hình thức vấn đáp để giải thích phần “Vi ngôn đại nghĩa” trong sách “Xuân Thu”.
(3)Tả thị (左氏): chỉ “Tả Truyện”, còn gọi là “Tả Thị Xuân Thu” do Lỗ thái sử Tả Khâu Minh thời Xuân Thu viết. Sách này chủ yếu dùng hình thức tự sự, chú trọng dùng sự việc trong lịch sử để chứng minh sự đúng đắn của cuốn “Xuân Thu”.
(4)Cốc Lương (谷梁): chỉ “Cốc Lương Truyện” do Cốc Lương Xích thời Chiến quốc viết.
(5)kinh (經): sách vở cổ đại phân ra 4 bộ: Kinh, Sử, Tử, Tập. Trong bài này chỉ điển tịch của Nho gia.
(6)ký (既): đã, rồi.
(7)phương (方): mới, bắt đầu.
(8)Tử (子): sách vở cổ đại phân ra 4 bộ: Kinh, Sử, Tử, Tập. Trong bài này chỉ sách của Bách gia chư tử.
(9)toát (撮): trích, trích dẫn, trích lục, rút ra những điều cốt yếu.
(10)kỳ (其): sách của Bách gia chư tử.
(11)yếu (要): trọng điểm, điểm chính.
(12)ký (記): nhớ, nhớ kỹ, ghi nhớ.

Dịch nghĩa tham khảo

“Tam Truyện” hay “Xuân Thu Tam Truyện” là tên gọi chung của bộ sách giải thích sách “Xuân Thu”, theo thứ tự gồm “Công Dương Truyện” của tác giả Công Dương Cao thời Chiến Quốc, “Tả Truyện” của tác giả Tả Khâu Minh người nước Lỗ thời Xuân Thu và “Cốc Lương Truyện” của tác giả Cốc Lương Xích thời Chiến quốc.

Sau khi thông hiểu các sách của Nho gia thì mới bắt đầu học tới sách của Bách gia chư tử, đối với sách các gia cần rút ra những trọng điểm, ghi nhớ những việc ở trong đó.

Đọc sách luận bút

Trong bài này, ngoài việc nói cho trẻ về tác dụng và ý nghĩa viết ra “Tam Truyện” còn có lý do đặc biệt là vì để lý giải nội dung của sách “Xuân thu”, chủ yếu là để các em biết sau này học xong kinh điển Nho gia, sẽ còn tiếp xúc với sách của Bách gia chư tử, nhất định phải tiến hành học tập. Vì vậy, hai câu then chốt ở đây là “Kinh ký minh, Phương độc Tử” (Kinh đã rõ, mới đọc Tử).

Tại sao câu này quan trọng như vậy? Kỳ thực đây là nói cho học sinh biết rằng các tác phẩm kinh điển của Nho giáo về cơ bản là giáo dục đạo đức, cho dù là học tập lịch sử từ sách “Xuân Thu”, làm quan nhất định phải hiểu cách viết các loại văn chương và ý nghĩa của “Thượng Thư”, thông hiểu lý lẽ tự nhiên của thiên địa vạn vật trong “Dịch Kinh”, biết rõ lòng dân và tình hình thực tế trong xã hội, để có thể làm rõ ý chí trong “Kinh Thi”, cùng học tập “Chu Lễ” để nắm rõ chế độ lễ nghi của triều đình và bách quan (đủ loại quan lại), đều là để thực hiện lý tưởng Nho sinh ra sức giúp đỡ cho thiên hạ, đức hóa thiên hạ, vì dân phục vụ các việc quản trị quốc gia, khiến cho thiên hạ thái bình. Là xuất từ tư tưởng và trách nhiệm vô tư vì nước vì dân mà đọc sách học tập, lấy tu dưỡng phẩm tính đạo đức làm trọng. Là cơ sở để làm người. Cơ sở này không xây dựng tốt thì không thể học tập Bách gia chu tử.

Tại sao lại như vậy? Nếu thông thường theo Bách gia chư tử mà nói, là các loại phương pháp luận, về cơ bản chính là biện pháp xử lý vấn đề cụ thể. Như “Hàn Phi Tử”, người hiện đại nghiên cứu về ông, đa số là ra sức nghiên cứu để có được kỹ xảo thu phục lòng người, có thể nói đó là phương pháp và kỹ xảo thông minh để giải thích tâm lý con người và sử dụng nó để đạt được mục đích của chính họ. Ví dụ, cách đối đãi với cấp trên, cách thuyết phục cấp trên, cách làm vui lòng sếp, thuận theo chấp trước vào danh lợi tình của đối phương mà nói, và áp dụng nó vào các mối quan hệ giao tiếp trong công ty hiện đại. Một ví dụ khác là bộ binh pháp “Tôn Tử”, có thể áp dụng vào việc cạnh tranh thị trường. Nhiều phương pháp cụ thể khác nhau được phân tích cặn kẽ, áp dụng vào sinh hoạt và công việc gần như rất nhanh chóng, nên người hiện đại thấy rất thực dụng, cũng rất nhiều người đang nghiên cứu và học tập, nhưng không ai nguyện ý học tập kinh điển của Nho gia. Đây là cách làm đảo ngược gốc ngọn. Bách gia chư tử, gần như có thể nói là tập hợp của các loại kỹ xảo mưu kế, nhưng nó giống như một con dao, xuất phát từ mục đích gì, được áp dụng ở đâu, quyết định chọn phương cách nào sẽ mang lại kết quả tốt xấu khác nhau cho con người.

Một người tốt sẽ dùng chúng vì để lợi nước lợi dân, một kẻ phẩm đức bại hoại dùng chúng sẽ hại nước họa dân, vì tư lợi mà không từ thủ đoạn nào. Khổng Tử gọi những kẻ có được kỹ xảo nhưng đạo đức bại hoại này là tiểu nhân. Tiểu nhân thì không thể đọc những sách này. Chỉ những người có phẩm đức quân tử mới có thể học tập những phương pháp và kỹ xảo này, dùng để điều hành đất nước, cứu giúp dân chúng. Vì vậy, trước tiên phải học tập kinh điển của Nho gia, hiểu được phẩm đức của quân tử, có được chí hướng của quân tử, mới có thể đọc những sách này. Đi trên con đường ‘dĩ đức ngự tài’ (lấy đức điều khiển tài năng). Cho nên, Nho gia không hề bài xích Bách gia chư tử, chỉ là thiện dùng, lúc quản lý quốc gia gặp phải vấn đề cụ thể, áp dụng hình pháp thì có thể tham kảo phương pháp của các gia, nhưng phải thận trọng, không thể dùng hình phạt nghiêm khắc, mọi thứ đều lấy việc chăm lo tốt cho bách tính làm khởi điểm. Khi dùng binh thì tham chiếu các loại binh pháp, cũng có thể áp dụng, có phương pháp và ví dụ thực tế cụ thể làm tham khảo, rất thực dụng. Nhưng tuyệt đối không được dùng nó để hại người. Vì vậy, đọc những sách này chỉ cần đọc những điểm mấu chốt quan trọng, ghi nhớ những ví dụ thực tế điển hình là được rồi.

Câu chuyện: Bện da đứt ba lần (Vi biên tam tuyệt)

Vào những năm cuối đời, Khổng Tử thích nghiên cứu Chu Dịch.

Bởi vì thời kỳ Xuân Thu vẫn chưa có giấy, vì thế chữ được viết lên từng chiếc thẻ tre. Một bộ sách sẽ có rất nhiều thẻ tre nên cần dùng dây làm bằng da trâu (hoặc động vật khác) để bện các thẻ tre lại thì mới đọc được. Bình thường các sách bằng thẻ tre được cuộn lại để cất đi, khi đọc thì mới mở ra. Văn tự của Chu Dịch khó hiểu, nội dung lại không rõ ràng, do đó Khổng Tử mới dở đi dở lại để đọc nhiều lần. Cứ như thế, ông đã làm cho bện da bị đứt nhiều lần (Vi biên tam tuyệt).

Dù đọc đến mức độ như vậy, nhưng Khổng Tử vẫn chưa hài lòng, ông nói: “Nếu như ta có thể sống thêm vài năm, thì có thể hiểu được thêm nhiều hơn nội dung và chữ viết của Chu Dịch”.

Thành ngữ “Vi biên tam tuyệt” miêu tả việc đọc sách chăm chỉ chịu khó. Câu chuyện này cũng nói với mọi người rằng, Khổng Tử nhận ra rằng Đạo gia vốn cao thâm hơn, bản thân ông đã chỉnh lý một bộ phận văn hóa Đạo gia dùng để làm người, phần này có thể lý giải, biến nó thành kinh điển của Nho gia truyền cấp cho con người. Về thực tế, Khổng Tử cũng thừa nhận rằng so với tu Đạo của Đạo gia, bản thân ông biết quá ít. Cho nên ông một mực không ngừng học tập.

Câu chuyện: Nửa bộ Luận Ngữ (Bán bộ Luận Ngữ)

Triệu Phổ, ban đầu là quan cấp dưới của Triệu Khuông Dẫn. Năm 960, Triệu Khuông Dẫn đưa quân lên phía bắc, khi quân đến Trần Kiều, Triệu Phổ đã đưa ra kế sách giúp Triệu Khuông Dẫn phát động binh biến ở Trần Kiều. Triệu Khuông Dẫn làm hoàng đế, kiến lập triều Tống, sử gọi là Tống Thái Tổ. Sau đó, Triệu Phổ lại phò tá Tống Thái Tổ thống nhất đất nước, và ông được phong làm Tể tướng. Sau khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn qua đời, em trai của ông là Triệu Khuông Nghĩa lên kế vị, sử gọi là Tống Thái Tông.

Dưới thời Tống Thái Tông, Triệu Phổ vẫn làm Tể tướng. Có người tâu với Tống Thái Tông rằng Triệu Phổ học thức nông cạn, sách mà ông ta đọc chỉ có một bộ “Luận Ngữ” của Nho gia, mà lại để ông ta làm Tể tướng là không thích hợp.

Có một lần, Tống Thái Tông hỏi Triệu Phổ: “Có người nói khanh chỉ đọc có một bộ “Luận Ngữ”, có đúng vậy không?”

Triệu Phổ thật thà trả lời: “Những gì thần biết, quả thật không vượt khỏi cuốn “Luận Ngữ”. Năm xưa thần dùng nửa bộ “Luận Ngữ” để phò trợ Thái tổ bình định thiên hạ, giờ đây thần dùng nửa bộ Luận Ngữ để phò trợ bệ hạ, giúp thiên hạ thái bình”.

Về sau Triệu Phổ qua đời vì bệnh, người nhà mở hòm sách của ông ra, bên trong quả thật chỉ có 20 thiên “Luận Ngữ”.

“Bán bộ Luận Ngữ” dùng để nhấn mạnh sự tinh thâm của tư tưởng Nho gia. Có thể sử dụng nhân tài, bình định (tạo yên ổn) và quản lý thiên hạ. Tuyệt không thể đánh đồng với những thứ tài mọn cụ thể của Bách gia chư tử. Đương nhiên là có sách vở, tựa như binh pháp, song có nội hàm cao thâm hơn, thế nhưng cũng không có ban cấp cho người bình thường, không phải là người tu luyện sẽ không xem được gì, vì đây là một vấn đề khác.

Tác giả: Lưu Như

Nguồn ChanhKien.Org

Xem Tam Tự Kinh – Tập 21: Câu chuyện về Lão Tử

Video tham khảo: Nguồn gốc câu “Bán bộ Luận Ngữ trị thiên hạ”

Tam Tự Kinh - Tập 21 - Nguồn gốc câu "Bán bộ Luận Ngữ trị thiên hạ"
Video Tam Tự Kinh – Nguồn gốc câu “Bán bộ Luân Ngữ trị thiên hạ” (Nguồn Chánh Kiến)

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x