Đệ Tử Quy (1) – Đạo đức của Thủy tổ Đế Thuấn

Đệ Tử Quy - Bài 1 - Phép người con, Thánh nhân dạy Hiếu đễ trước, kế cẩn tín
Bài 1 – Phép người con, Thánh nhân dạy Hiếu đễ trước, kế cẩn tín (Ảnh lấy từ phim Tiểu Càn Khôn)

Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp

ĐỆ TỬ QUY

Ban biên tập tài liệu giảng dạy Văn hóa Chánh Kiến

Hướng dẫn đọc:

Cuối thời đại nhà Thanh “Đệ Tử Quy” là tài liệu khai sáng đạo đức có ảnh hưởng rộng lớn nhất, rất nhiều châu huyện ấn định nó là sách giáo khoa vỡ lòng của trẻ em. Tác giả Lý Dục Tú biên soạn “Đệ Tử Quy”, sau khi mất ông được thờ phụng tại đền thờ các vị tiên hiền ở Sơn Tây Giáng Châu.

Lý Dục Tú là một vị Tú tài vào thời Khang Hi nhà Thanh, ông căn cứ vào sách “Đồng Mông Tu Tri” của Chu Hi thời Tống mà cải biên thành “Huấn Mông Văn”, sau khi được Thanh triều Giả Tồn Nhân chỉnh lý, đổi tên thành “Đệ Tử Quy”. Bởi vì Chu Hi nhìn thấy giáo dục ở trường học lúc đó “Không cách nào dạy dỗ, thầy trò nhìn nhau, hờ hững như người qua đường.” Đạo đức bại hoại, trọng lợi quên nghĩa, giáo dục chỉ vì để học sinh đối phó kiểm tra thi cử, Chu Hi cho rằng đây là bỏ gốc lấy ngọn, chủ trương giáo dục ngữ văn phải lấy “Minh nhân luân vi bản” (minh tỏ nhân luân làm gốc), khôi phục truyền thống giáo dục tốt đẹp của ba đời Hạ Thương Chu, cho nên đã biên soạn ra một loạt giáo trình ngữ văn, trong đó có biên soạn cuốn sách chuyên khai sáng cho trẻ em là “Đồng Mông Tu Tri”, dạy bảo trẻ em chi tiết sinh hoạt hàng ngày.

“Đệ Tử Quy” là tiếp theo nội hàm của “Đồng Mông Tu Tri”, cũng là dạy bảo trẻ em về đạo đức luân lý và lễ tiết cơ bản làm chủ. Căn cứ vào một đoạn nói chuyện của Khổng Tử trong phần thứ nhất cuốn “Luận Ngữ. Học nhi” làm mục đích chính của toàn bộ cuốn sách: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng, nhi thân nhân, hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn.” (Đệ tử ở nhà phải hiếu thuận, ra ngoài tôn kính người, cẩn thận giữ tín, thương yêu mọi người, thân cận người nhân đức, thực hành mà còn dư sức thì học tri thức.) Đem văn chương chia làm bảy đoạn lớn (Nhập tắc hiếu, Xuất tắc đễ, Cẩn, Tín, Phiếm ái chúng, Thân nhân, Dư lực, Học văn). Nội dung đơn giản dễ hiểu, vần điệu thuận miệng, xác định rõ ràng cụ thể về quy phạm hành vi đúng đắn cho trẻ em, hiện nay vẫn lưu hành rộng khắp tại các trường tiểu học.

Bản giáo trình này chiểu theo nội dung mà phân thành 32 bài, mỗi bài gồm có Nguyên văn, Từ vựng, Lời dịch, Lời giải thíchCâu chuyện tham khảo. Nguyên văn bằng Hán ngữ cùng 3 loại Bính âm, Chú âm Âm Hán Việt. Lời dịch cung cấp một bản văn thuần Việt, Từ vựng là nhắm vào ý nghĩa của từ bên trong câu văn mà tiến hành giải thích, Lời giải thích là giải thích ý nghĩa của toàn câu. Cuối cùng, kèm theo Câu chuyện tham khảo tương quan với nội dung bài học, để đọc giả học tập càng thêm thâm nhập, mở rộng và thêm sinh động lý thú hơn nữa, hy vọng trong quá trình học tập ngữ văn có thể dưỡng thành phẩm đức tốt đẹp cho trẻ em đi học.


Tài liệu giảng dạy Văn hóa sơ cấp

Đệ Tử Quy (1)Đạo đức của Thủy tổ Đế Thuấn

Nguyên văn:

弟子(1)規(2), 聖人(3)訓(4): 首(5)孝弟(6), 次(7)謹信(8);
汎愛眾(9), 而(10)親仁(11); 有餘力(12), 則(13)學文(14)。

Bính âm:

弟(dì)               子(zǐ)             規(guī),            聖(shèng)        人(rén)           訓(xùn):
首(shǒu)          孝(xiào)        弟(tì),               次(cì)                謹(jǐn)            信(xìn);
汎(fàn)             愛(ài)            眾(zhòng),          而(ér)               親(qīn)           仁(rén);
有(yǒu)            餘(yú)           力(lì),                則(zé)               學(xué)          文(wén)。

Chú âm:

弟(ㄉㄧˋ)         子(ㄗˇ)           規(ㄍㄨㄟ),     聖(ㄕㄥˋ)         人(ㄖㄣˊ)        訓(ㄒㄩㄣˋ):
首(ㄕㄡˇ)         孝(ㄒㄧㄠˋ)   弟(ㄉㄧˋ),       次(ㄘˋ)              謹(ㄐㄧㄣˇ)    信(ㄒㄧㄣˋ);
汎(ㄈㄢˋ)         愛(ㄞˋ)           眾(ㄓㄨㄥˋ),       而(ㄦˊ)             親(ㄑㄧㄣ)     仁(ㄖㄣˊ);
有(ㄧㄡˇ)         餘(ㄩˊ)          力(ㄌㄧˋ),         則(ㄗㄜˊ)         學(ㄒㄩㄝˊ)    文(ㄨㄣˊ)。

Âm Hán Việt:

Đệ tử quy, Thánh nhân huấn: Thủ hiếu đễ, thứ cẩn tín;
Phiếm ái chúng, nhi thân nhân; hữu dư lực, tắc học văn.

Lời dịch:

Phép người con, Thánh nhân dạy: Hiếu đễ trước, kế cẩn tín;
Yêu mọi người, gần người nhân; có dư sức, thì học văn.

Từ vựng:

(1) đệ tử (弟子): làm người em và làm người con.
(2) quy (規): quy phạm.
(3) Thánh nhân (圣人): người có phẩm đức cao siêu, cổ thánh tiên hiền có nhân cách hoàn mỹ.
(4) huấn (训): giáo huấn, dạy bảo, khuyên răn, chuẩn mực, phép tắc.
(5) thủ (首): đứng đầu, quan trọng nhất.
(6) hiếu đễ (孝弟): hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính anh chị. 弟 cũng giống như 悌, đồng âm “đễ”, nghĩa là kính trọng và thuận theo anh chị, một âm khác là “đệ”.
(7) thứ (次): quan trọng thứ nhì.
(8) cẩn tín (谨信): chú ý cẩn thận, thành thật giữ tín, giữ lòng tin, sự tín nhiệm.
(9) phiếm ái chúng (汎愛眾): bác ái với mọi người. “Phiếm” có nghĩa là rộng khắp.
(10) nhi (而): mà lại, hơn nữa.
(11) thân nhân (親仁): thân cận người có tâm nhân ái. “Nhân” 仁 ,: tâm nhân từ khoan dung rộng lượng, đạo đức cơ bản của người yêu người yêu vật.
(12) dư lực (餘力): tâm lực còn dư.
(13) tắc (則): liền.
(14) học văn (學文): nghiên cứu học vấn. Khổng tử nói: “Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn” (Thực hành mà còn dư sức thì học tri thức). Chủ trương chú trọng đức dục hơn trí dục (giáo dục đạo đức hơn giáo dục kiến thức), trước tiên phải dưỡng thành phẩm đức tốt đẹp, còn có thời gian thì mới học các cái khác, các loại tri thức (học vấn, học thức).

Lời giải thích:

“Đệ Tử Quy” là quy phạm đạo đức được các bậc cổ thánh tiên hiền truyền dạy. Trong đó quan trọng nhất chính là hiếu thuận đối với cha mẹ, đối với anh chị; tiếp đó là làm người khi làm việc phải nghiêm cẩn giữ thành tín. Yêu quý mọi người trên thế giới, đồng thời thân cận với nhiều bậc quân tử nhân đức. Còn có dư thời gian và tinh lực, mới có thể học tập các loại văn học, các loại kiến thức khác.

Câu chuyện tham khảo:

Đạo đức của Thủy tổ Đế Thuấn

Thuấn là một trong Ngũ Đế (*) của thời cổ đại Trung Quốc, ông họ Diêu, tên là Trọng Hoa, hào là Ngu Thị, lịch sử gọi là Ngu Thuấn.

Khi Thuấn còn rất nhỏ mẹ đã qua đời, cha mù hai mắt là Cổ Tẩu lại cưới vợ kế, sinh ra em trai tên là Tượng. Thuấn có cha là người ngoan cố không nói lý, lại thêm mẹ kế tính tình thô bạo hung ác, em trai ngang ngược vô lý, mẹ kế và Tượng vì được Cổ Tẩu sủng ái, ba người đều chán ghét vợ trước đã sinh ra Thuấn, thường xuyên muốn giết chết ông.

Có một lần Cổ Tẩu gọi Thuấn sửa chữa kho gạo, chờ Thuấn leo lên trên đỉnh kho, Cổ Tẩu liền phóng hỏa đốt kho gạo, Thuấn cầm hai cái mũ rộng vành giống như chim đáp xuống, không bị hại chết. Sau đó Cổ Tẩu lại gọi Thuấn đi đào giếng, lúc Thuấn đang đi sâu vào trong giếng, Cổ Tẩu cùng hợp lực với Tượng dùng đất lấp giếng, không nghĩ tới Thuấn rất thông minh, lúc đào giếng đã dự đoán nên đào một thông đạo bên hông trốn thoát. Tượng vốn cho rằng lần này không có sơ sót nào, liền chiếm đoạt gia sản của Thuấn, nhưng nhìn thấy Thuấn về nhà, mọi người giật mình kinh hãi. Nhưng Thuấn khoan dung độ lượng vẫn lấy đức báo oán, hôm sau vẫn hiếu kính cha mẹ, yêu quý em trai như cũ.

Cổ nhân nói: “Trăm thiện hiếu làm đầu.” Năm Thuấn 20 tuổi, hiếu thảo nổi danh thiên hạ, năm 30 tuổi thì Nghiêu Đế tìm kiếm hiền tài, quần thần tứ phương đều đề cử Thuấn, bởi vậy Nghiêu Đế đem 2 con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh gả cho Thuấn, cũng để 9 người con trai cùng Thuấn ở chung, để quan sát phẩm đức của Thuấn. Bởi vì Thuấn lấy đức phục nhân, Nga Hoàng, Nữ Anh nhận được đức hạnh của Thuấn cảm hóa, cũng không dám vì thân phận tôn quý mà có thái độ kiêu căng, đối xử mọi người đều rất khiêm tốn cung kính. 9 người con trai của Nghiêu Đế chịu ảnh hưởng của Thuấn, cũng ngày càng thêm nhân hậu cẩn thận. Thuấn đến Lịch Sơn trồng trọt, người ở đó nhận được ảnh hưởng của Thuấn, trở nên lòng dạ rộng lớn, nhượng ruộng tốt cho người khác.

Thuấn đến Lôi Trạch bắt cá, người Lôi Trạch tranh nhau nhượng chỗ. Thuấn đến bên Hoàng Hà làm đồ gốm, sản xuất đồ gốm ở đó trở nên vô cùng tinh tế. Tất cả mọi người thích ở cùng với Thuấn, cho nên ông ở nơi nào, một năm sau liền tụ thành thôn xóm, hai năm thì thành thị trấn, ba năm liền thành đại đô thị. Trải qua khảo sát, Đế Nghiêu rất hài lòng đối với Thuấn, đem ngôi vua truyền cho Thuấn.

Đế Thuấn đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức, ông tuyên dương giáo dục Ngũ thường: Phụ nghĩa, Mẫu từ, Huynh hữu, Đệ cung, Tử hiếu. Thúc đẩy đạo đức nhân luân, khai sáng ra tiền lệ đạo đức truyền thống của dân tộc Trung Hoa, trở thành khuôn mẫu cho người Trung Quốc các triều đại noi theo.

Mấy ngàn năm nay, truyền thống văn hóa của vua Thuấn lấy đức làm đầu, thông qua văn hóa Nho gia của Khổng Tử truyền thừa xuống, đã giáo hóa nhiều đời người Trung Quốc.

(*) Chú thích:

Tam Hoàng Ngũ Đế: Thời viễn cổ, Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế gọi là Tam Hoàng, là ba vị Hoàng đế sớm nhất của Trung Quốc. Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, gọi là Ngũ Đế. Tài liệu lịch sử cổ ghi chép, Hoàng Đế là một vị trong Tam Hoàng, cũng là vị đứng đầu Ngũ Đế.

Nguồn:

ChanhKien Epoch Times

ChanhKien.Org

Xem tiếp: Đệ Tử Quy (2) – Chu Bạt ngỗ nghịch với cha mẹ bị đọa thành con lừa

Hình ảnh giới thiệu sách Đệ Tử Quy trong phim Tiểu Càn Khôn.
Hình ảnh giới thiệu sách Đệ Tử Quy trong phim Tiểu Càn Khôn.

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

5 4 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x