Nghiêu Thuấn Vũ – Chương 4: Thuận thiên ý đế Nghiêu thiện Thuấn

Chân dung Nghiêu Thuấn Vũ
Chân dung Nghiêu Thuấn Vũ

Nhân vật anh hùng thiên cổ – Nghiêu Thuấn Vũ

Chương 4: Thuận thiên ý đế Nghiêu thiện Thuấn

1. Đế Nghiêu tìm người thừa kế

Vua Nghiêu biết rằng con trai mình là Đan Chu đức tài không đủ để kế thừa ngôi vị, ông thường chú ý tìm kiếm người kế thừa ngôi vị của mình.

“Lã Thị Xuân Thu” ghi lại rằng, vua Nghiêu đã nhường thiên hạ cho Tử Châu Chi Phụ, nhưng Tử Châu Chi Phụ đã khéo lời từ chối.

“Cao Sĩ Truyện” ghi chép rằng, vua Nghiêu nhường ngôi cho Hứa Do, nhưng ông đã thóai thác, nói mình muốn “tu thân dưỡng tính, không màng thế sự”.

Vua Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Sào Phụ, Sào Phụ cũng không nhận.

Vua Nghiêu lại nhường ngôi vị cho Bồ Y Tử, Bồ Y Tử nói: “Ngài chớ quá lo nghĩ, hiền nhân sớm đã chuyển sinh xuống thế gian, những ngày tới là có thể có được người đó”

Vua Nghiêu hỏi Tứ Nhạc rằng ai có thể kế thừa đế vị, Tứ Nhạc tiến cử Thuấn cho vua Nghiêu.

2. Tuổi thơ đầy mưa gió

Cách vài trăm dặm về phía tây nam của huyện Bình Dương ở Ký Châu có một ngôi làng nho nhỏ, gọi là Diêu Khư, trong đó một gia đình họ Ngu là hậu thế của Chuyên Húc. Thuấn sinh ra ở gia đình này.

Theo “Sử Ký”, phụ thân của Thuấn là Cổ Tẩu, mẫu thân tên là Ác Đăng.

Thuấn, vốn tên là Trùng Hoa, truyền thuyết nói rằng mắt ông có hai đồng tử nên mới đặt tên này, Thuấn là thụy hiệu. Sách “Thụy Pháp” viết rằng: “nhân thánh thịnh minh viết Thuấn”, nghĩa là: “nhân từ, thánh minh, đức thịnh và sáng suốt thì gọi là Thuấn”.

Cổ Tẩu và Ác Đăng sinh được hai người con trai, Thuấn là người con thứ hai, sinh tại Diêu Khư, nên họ là Diêu. Từ nhỏ thông minh cơ trí, là người con thứ hai, cho nên ông cũng được gọi là Trọng Hoa.

Theo “Trúc thư kỷ niên” ghi chép: “Mẹ Thuấn là Ác Đăng, thấy cầu vồng lớn trong lòng cảm ứng, rồi sinh Thuấn tại Diêu Khư. Mắt Thuấn có hai đồng tử, nên tên là Trùng Hoa”.

Ngoài ra, hình thể Thuấn còn có rất nhiều chỗ khác thường: Lòng bàn tay của ông có chữ giống như chữ “bao”, trán nhô ra, xương nhô cao, đầu to mà tròn, mặt đen mà vuông, mặt hình rồng miệng to, có thể chứa được cả một nắm đấm, mặt hình rồng mà xương trán gồ lên.

Lúc Thuấn hai tuổi, mẹ đẻ qua đời, cha lấy mẹ kế. Về sau mẹ kế sinh một trai một gái, con trai gọi là Tượng, con gái gọi Khỏa Thủ. Sau khi sinh con, mẹ kế thường xuyên đánh đập mắng chửi hai anh em Thuấn, còn kích động cha Thuấn vô duyên vô cớ trách phạt hai anh em Thuấn, hai huynh đệ thường xuyên bữa đói bữa no, anh trai Thuấn chịu không nổi sự hành hạ mà sớm qua đời.

Khi Thuấn khoảng mười tuổi, có người tu đạo gọi là Vụ Thành Tử chủ động dạy Thuấn và những đứa trẻ khác đọc sách. Vụ Thành Tử biết, Thuấn sau khi chịu hết khổ cực thì tương lai tất thành bậc đại khí.

Mẹ kế của Thuấn không muốn để cho Thuấn đi đọc, nhờ sự sắp xếp của hàng xóm, Thuấn đi chăn trâu cho nhà hàng xóm, đồng thời theo Vụ Thành Tử học tập, đọc sách, viết chữ và các đạo lý làm người, còn cả những đạo lý về thiên văn địa lý và trị quốc bình thiên hạ. Cứ như vậy Thuấn vừa chăn trâu vừa đi học, theo Vụ Thành Tử học hành 3 năm. Sau đó Thuấn lại bái sư Doãn Thọ Tử.

3. Hình mẫu về lòng nhân ái hiếu đễ

Trong lịch sử, Thuấn là hình mẫu về lòng hiếu đễ, năm hai mươi tuổi ông đã nổi danh khắp thiên hạ bởi lòng hiếu đễ.

Thuấn sống trong hoàn cảnh gia đình “cha gàn dở, mẹ gầm gào, em ngạo mạn”. Sử sách ghi lại rằng, cha Thuấn ngu đần, không phân biệt thị phi, ngoan cố, chẳng đếm xỉa đến đạo lý, hai mắt lại bị mù, nên người ta gọi là Cổ Tẩu (nghĩa là ông mù). Mẹ kế ngu muội, thâm độc tàn nhẫn, miệng nói lời không thật thà đáng tin, người em cùng cha khác mẹ tên là Tượng thì hung bạo, ngạo nghễ, phóng túng, tính cách cuồng ngạo, cực đoan tự tư, lòng dạ nham hiểm. Cả ba người này đều muốn tiêu diệt Thuấn.

Thuấn nỗ lực hết mình lấy lòng khoan dung, hiếu thuận, nhân ái để xử lý tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình. Đối với cha mẹ cung kính, tận lễ, hiếu kính cung phụng, mặc dù phụ mẫu không thích ông, nhưng từ đầu chí cuối ông vẫn không hề làm trái đạo của người làm con. Khi phụ thân của Thuấn dùng gậy nhỏ đánh ông, ông chỉ đứng bất động, khi phụ thân dùng gậy lớn đánh ông, người nhà muốn làm hại ông, ông liền kịp thời lánh đi, khi trong nhà có việc cần giúp đỡ, ông luôn luôn bên cạnh phục dịch cha mẹ.

Lòng hiếu kính cảm động trời xanh của Vua Thuấn (Nghiêu Thuấn Vũ)
“Lòng hiếu kính cảm động trời xanh” của vua Thuấn. Ảnh minh họa của “Thánh dụ tượng giải”

Sống trong nghịch cảnh, nhưng Thuấn lại có thể biểu hiện ra phẩm đức phi phàm, có thể nhẫn được điều mà người thường không thể nhẫn, Thuấn thể hiện ra đạo đức cao thượng, hiếu đễ trung tín, là tấm gương chói lọi của nền văn hóa truyền thống Á Đông.

Một hôm, có một con chim ba chân màu đỏ xuất hiện ở sân trong nhà Thuấn. Đạo sĩ Phương Hồi nói, chim đỏ chính là Chu điểu, là chim Thần ba chân ở mặt trời. Hễ có người con chí hiếu thì chim ba chân đến đỗ ở trong sân. Thuấn thờ cha mẹ chí hiếu, thế nên xuất hiện loài chim này.

Lòng hiếu kính cảm động trời xanh của Vua Thuấn (Nghiêu Thuấn Vũ)
Lòng hiếu đễ của Thuấn cảm động trời xanh, khai hoang trồng trọt ở Lịch Sơn, được voi giúp cày đất, chim giúp trừ cỏ dại, vua Nghiêu phái người đi tìm ông. (Một trong những bức ảnh trong “Nhị thập tứ hiếu”)

4. Dùng đức cảm hóa lòng người

Thuấn không được cha mẹ và em trai dung nạp nên phải đi xa ngoài mưu sinh. Vì Thuấn đối xử với mọi người đều khiêm tốn, khoan dung nhẫn nhịn, nên ông đi đến đâu cũng được mọi người hoan nghênh tôn trọng. Mỗi nơi mà ông ở, mọi người đều nguyện ý tụ tập về nơi ông sống. 

Khi Thuấn ở Lịch Sơn khai khẩn trồng trọt, liền có voi xuống núi, dùng mũi cuộn cày cuốc giúp Thuấn cày đất trồng trọt, mọi người đều thấy rất thần kỳ. Còn có cả chim bay đến giúp Thuấn trừ cỏ dại. Mọi người nói: “Ngu Trùng Hoa kinh qua nhiều ma nạn, tất có hậu phúc. Voi cày bừa chim làm cỏ, chính là dấu hiệu báo trước phi phàm” Tại Lịch Sơn, lúc đó thường có hiện tượng vì tranh chấp đất đai mà đánh nhau. Thuấn chủ động lấy đất đai phì nhiêu do tự mình khai khẩn đưa cho người yếu thế, rồi lại tự mình đi khai hoang trồng trọt ở những vùng đất cằn cỗi. Bởi sự ảnh hưởng của Thuấn, người dân ở Lịch Sơn lễ nhượng đã trở thành phong tục, chung sống hòa thuận, người đến Lịch Sơn khai hoang trồng trọt càng ngày càng đông, dần dần hình thành một ngôi làng lớn.

Khi Thuấn ở Lôi Trạch đánh cá, cũng có người vì ngư trường mà tranh đấu, Thuấn liền nhường ngư trường nhiều cá cho người khác, tự mình đến nơi người khác không muốn tới để đánh cá. Dưới tác động của ông, người dân ở Lôi Trạch đều nhường nhịn lẫn nhau, tranh nhau đem ngư trường tốt nhường cho người khác, không còn tranh đấu nữa.

Khi Thuấn ở Hà Tân (ở phía Bắc huyện Vĩnh Tế) làm đồ gốm, đồ gốm của người Hà Tân làm ra rất thô xấu, Thuấn dụng tâm chế tạo ra đồ gốm vừa đẹp mắt lại bền, chất lượng mặt trong mặt ngoài đều như nhau. Thợ làm gốm đều theo ông học tập, vì thế mà đồ gốm Hà Tân làm ra đều không còn thô xấu nữa mà rất tinh tế.

Ở đâu Thuấn cũng nghĩ vì người khác, khoan dung nhẫn nhịn, dùng đức cảm hóa người đời. Sách “Thượng Thư- Đại Truyện” kể rằng: “Thuấn không trèo mà cao, không đi mà đến được nơi xa”. Rất nhiều người mộ danh mà chuyển tới nơi Thuấn ở. Thế là, chỗ Thuẫn ở, một năm liền thành một ngôi làng nhỏ, hai năm liền thành một thị trấn nhỏ, ba năm liền thành một thành phố có rất nhiều cư dân.

5. Được tiến cử là người thừa kế của vua Nghiêu

Khi Thuấn 30 tuổi, vua Nghiêu tìm nhân tài khắp thiên hạ có đủ tài đức để thể truyền ngôi, Tứ Nhạc tiến cử Thuấn.

Một đêm Thuấn nằm mộng, mơ thấy tóc của mình dài đến tận thiên thể, lông mày cũng dài đến tận thiên thể. Khi ông còn chưa hiểu ý nghĩa là gì thì có người chúc mừng, nói: “Tóc mọc dài tận trời ý chỉ là vương đế đó; lông mày thấp hơn một bậc, mà lông mày dài đến tận trời, là nói thấp hơn một bậc, nhưng quyền lực với đế vương lại ngang bằng. Không chừng vua Nghiêu muốn dùng ông!” Thuấn nói: “Kẻ thất phu như tôi không dám vọng tưởng.”

Vài ngày sau, vua Nghiêu phái người đi tìm Thuấn, sau đó vua Nghiêu triệu kiến Thuấn.

Theo sách “Tuân Tử-Nghiêu Vấn” ghi chép, vua Nghiêu hỏi Thuấn: “Ta muốn có được thiên hạ, thì phải làm thế nào?”

Thuấn trả lời rằng: “Nắm chắc Đạo thì không sai lầm, làm việc nhỏ mà không trễ nải, nghe lời trung mà không mệt không chán, thế thì thiên hạ tự đến. Nắm chắc Đạo như trời đất, làm việc nhỏ như nhật nguyệt, trung thành ở trong nội tâm, tốt đẹp hiển hiện ra bên ngoài, hiển hiện ra tứ hải, như thế thì thiên hạ chỉ ở trong một góc của người đó. Thế thì có gì đáng phải giành đâu”.

Đại ý nói, chuyên tâm vào việc chính sự mà không có sơ suất, làm việc nhỏ cũng không giải đãi, trung thành thủ tín mà không chán nản, như thế người trong thiên hạ sẽ tự biết quy thuận, vậy đâu cần biện pháp đặc thù nào để thu hút người dân, khiến dân quy phục?

Sau đó Thuấn đưa ra quan điểm chính trị là phụng Thiên, cai quản đất đai và quan tâm bách tính.

Đế Nghiêu hết sức hài lòng, đem hai con gái gả cho ông, thông qua hai cô con gái mà quan sát phẩm đức nội tại của ông. Còn để chín con trai của ông cùng Thuấn kết giao với nhau, để quan sát tài cán và cách xử thế của ông. Vua Nghiêu cấp cho Thuấn một bộ y phục vải mịn, cho ông một cây đàn cầm, còn cấp cho ông trâu và dê.

Sau khi kết hôn Thuấn đưa hai con gái của vua Nghiêu đến ở tại ngôi nhà ở bờ sông Quy. Thuấn vẫn phụng dưỡng phụ mẫu như trước, yêu thương em trai, em gái, thậm chí càng thêm kính cẩn. Hai người con gái của vua Nghiêu cũng không có lòng kiêu ngạo, giữ trọn đạo làm vợ.

Nhìn thấy Thuấn hiển vinh như thế, phụ mẫu Thuấn lại sinh tâm tật đố, lại giận dữ. Tượng còn muốn chiếm đoạt những tài sản đó. Ba người bọn họ lại muốn hãm hại Thuấn. Thế là họ nghĩ ra một kế, để Thuấn tu sửa kho lúa, sau đó từ bên dưới phóng lửa đốt kho. Hôm đó Thuấn mang theo hai cái mũ rộng vành, khi lửa cháy, Thuấn hai tay giữ mũ bay xuống khỏi kho lúa, an toàn rời đi.

Kế này không thành lại nghĩ kế khác, họ bảo Thuấn lau rửa giếng nước, đợi khi Thuấn xuống đáy giếng, họ lập tức đổ lấp đất đá vào giếng, con gái thứ hai của vua Nghiêu đưa cho Thuấn áo bách long, Thuấn mặc áo bách long, đào một cái lỗ nằm ngang mà chui ra, thoát khỏi được nạn này.

Sau sự việc đó, Thuấn vẫn phụng dưỡng cha mẹ, yêu thương các em giống như trước. Vì lòng hiếu thảo thành tâm của Thuấn, mà cuối cùng đã khiến cho phụ mẫu tỉnh ngộ, Tượng cũng dần dần cải tà quy chính.

6. Trải qua khảo nghiệm chính trị

Thông qua khảo sát, vua Nghiêu thấy Thuấn sống với người nhà cũng như xử thế hết thảy đều biểu hiện là một vị hiền giả, thế rồi vua Nghiêu bổ nhiệm Thuấn nhận chức Tư đồ, khảo nghiệm năng lực xử lý đại sự trong thiên hạ của ông.

Ban hành và thực thi Ngũ điển: Vua Nghiêu giao Thuấn đảm nhiệm chức vụ Tư đồ, việc phải thực hiện đầu tiên chính là phổ biến Ngũ điển giáo hóa, cẩn thận chỉnh lý năm loại luân lý đạo đức đó là: Cha nghĩa, mẹ từ, huynh hữu, đệ cung, con hiếu. Thuấn phổ biến ngũ điển giáo hóa, có hiệu quả rõ ràng, dân chúng đều có thể tự giác tuân thủ, thiên hạ an bình, bách tính hòa thuận.

Việc thứ hai, Nghiêu bổ nhiệm Thuấn làm Tư không, điều hành các sự vụ trọng yếu trong thiên hạ, quản lý bá quan. Các loại sự tình phức tạp khó xử Thuấn đều xử lý rất trật tự rõ ràng, bá quan vui mừng thuận theo.

Việc thứ ba là để Thuấn tiếp đãi chư hầu bốn phương, bốn cổng thành đều trang nghiêm. Việc này cũng được Thuấn thực thi rất trang trọng, tôn nghiêm, tuân theo lễ nghĩa.

Việc thứ tư là phái Thuấn đến các nơi tuần tra, khảo sát tình hình lũ lụt. Ở nơi rừng hoang nước độc, sông sâu đầm lầy, khí hậu dị thường, cuồng phong bạo vũ bất chợt, một chút bất cẩn có thể mất đi phương hướng, còn có mối nguy độc xà mãnh thú tấn công. Có hôm, Thuấn cùng một nhóm người đến khu rừng ít ai lui tới, đầu tiên họ gặp một đàn sói, ai nấy đều hoảng sợ. Khi Thuấn bước lên trước thì cả đàn sói đều quay đầu trốn vào trong rừng. Sau đó lại gặp ba con mãnh hổ, hổ đực trông thấy đám người liền gầm lên một tiếng khiến mọi người càng là kinh hãi, Thuấn đi về phía trước nói với mãnh hổ: “Chúng ta phụng mệnh thiên tử, tới nơi này khảo sát hồng thủy, muốn cứu nguy cho muôn dân, không ngờ lại gặp ngươi. Ngươi hãy nhanh trở về động, không được ở đây cản trở đường đi, đe dọa người đi đường.” Hổ đực dẫn hổ cái, ngậm hổ con, quay mình rời đi. Về sau, Vua Nghiêu nghe kể lại cảnh tượng này nói: “Đây không phải là Thiên Thần che chở, thì chính là thành tâm cảm hóa vạn vật”. Trong lúc giông bão sấm sét, Thuấn không mất đi phong thái, không lạc lối, ở trong các loại tình huống phức tạp khôn lường vẫn có thể giữ được điềm tĩnh, thong dong trấn định, xử lý thích đáng hết thảy vấn đề.

Chân dung của Vua Thuấn
Vua Thuấn trên bức chân dung bằng gạch thời Hán.

7. Công trạng thành lập giáo dục truyền đến vạn đời sau

Theo ghi chép, thời Nghiêu, Thuấn đã có cơ cấu giáo dục chuyên môn, có thể nói là hình thức sơ khai nhất của trường học.

Sách “Lễ Ký ‧ Vương Chế” viết rằng: “Có Ngu thị (tức Ngu Thuấn) nuôi dưỡng quốc lão (quan, đại phu) tại Thượng Tường (Viện dưỡng lão thượng), nuôi dưỡng thứ lão (thường dân) tại Hạ Tường (Viện dưỡng lão hạ)”. Sách “Lễ Ký ‧ Minh Đường Vị” viết: “Kho gạo, làm Tường (viện dưỡng lão) của Ngu thị”. Kho gạo chỉ kho lúa thời cổ đại. Tường, chỉ nơi dưỡng lão. Thời Nghiêu, Thuấn kho lúa được dùng làm nơi dưỡng lão.

Trong các bậc lão niên có người là bề tôi trong triều, có người là dân thường. Người già là bậc bề tôi trong triều thì được nuôi dưỡng ở Thượng Tường, người già là dân thường thì được nuôi dưỡng ở Hạ Tường. Họ đều là những người trải qua sự đời, là những người rất có kinh nghiệm. Thế nên, trẻ nhỏ được tập trung về đây, rồi mời các bậc trưởng giả ở đây truyền thụ tri thức và kinh nghiệm cho chúng. Kể từ đó, kho gạo vừa là trường học, một công đôi việc, vừa giữ được tác dụng dưỡng lão, lại tăng cường chức năng truyền thụ tri thức, trường học chuyên môn thời cổ đại chính là được ra đời như vậy.

Đến thời Tây Chu về cơ bản vẫn noi theo phương thức kết hợp giáo dục và dưỡng lão thời Nghiêu, Thuấn.

Thông qua phổ biến Ngũ điển giáo hóa, khởi xướng “Cửu đức”, thành lập giáo dục, Thuấn đã đặt định ra văn hóa truyền thống lấy đạo đức làm trung tâm. “Sử Ký” viết: “Thiên hạ sáng tỏ đức, đều từ bắt đầu từ Ngu Thuấn”. Hiếu với phụ mẫu, trung với quân chủ, làm lợi cho dân, thiên hạ là của chung, Thuấn đã dựng lên một tấm bia sáng ngời về đạo đức truyền thống cho các dân tộc Á Đông.

8. Ngu Thuấn nhiếp chính

Trải qua tôi luyện và khảo nghiệm, vua Nghiêu cho rằng Thuấn nhân từ, có đức, có trí huệ, có tài năng, có thể truyền lại thiên hạ cho ông.

Thuấn thoái thác nói mình đức hạnh còn chưa đủ, nhất định không chịu. Lúc bấy giờ, vua Nghiêu tuổi tác đã cao, cũng cần có người hiệp trợ ông. Đại Tư Nông kiến nghị Thuấn tạm thời làm Thái úy nhiếp chính. Ý tứ của từ “Uý” trong từ “Thái úy” tức là yên ổn từ trên xuống dưới, hi vọng ông có thể an định muôn dân.

9. Xuất hiện Hà Đồ, Ngu Thuấn nhận ngôi

Theo “Trúc Thư Kỷ Niên” ghi chép: “Vua Nghiêu tại vị bảy mươi năm, phượng hoàng xuất hiện ở sân, cỏ lạ chu thảo mọc lên, lúa lạ gia hòa trổ bông, nước cam lộ mát lành, suối rượu lễ tuyền phun, mặt trời mặt trăng cùng xuất hiện, ngũ tinh như liên châu. Trong bếp tự có thịt, mỏng như cái quạt nan, lay động liền có gió, thức ăn lạnh mà không thối, tên gọi là “thịt quạt”. Vua Nghiêu cho rằng là công lao của Thuấn, sẽ truyền lại thiên hạ cho ông. Thế rồi vua Nghiêu tắm rửa trai giới, lập đàn bên dòng sông Lạc, thành kính cầu nguyện Thượng Thiên, lựa chọn ngày tốt, dẫn Thuấn cùng lên núi Thú Sơn, để cầu được sự khai thị của Thần.

Nghiêu, Thuấn cùng nhau lên núi Thú Sơn, tại bờ sông Lạc, đoàn của vua Nghiêu trông thấy năm vị lão niên đang du ngoạn. Các lão ông ai cũng mày to đầu lớn, y phục khác hẳn với thường nhân, thần thái cử chỉ phi phàm. Họ rất vui mừng, vừa nhảy múa vừa ca hát. Có một vị lão niên cao giọng hát: “Hà Đồ sẽ đến, nên đến đây báo cho vua chờ đợi”.Vị lão niên thứ hai hát tiếp: “Hà Đồ sẽ đến, nên đến đây báo cho vua mưu tính”. Vị lão niên thứ ba lão giả hát tiếp: “Hà Đồ sẽ đến, nên đến đây báo cho vua ý đồ”. Vị lão niên thứ tư cao giọng hát tiếp: “Hà Đồ sẽ đến, nên đến đây báo cho vua phù hợp” Vị lão niên thứ năm cao giọng hát tiếp: “Long mã ngậm giáp, rùa cõng Lạc Thư, ngọc trắng làm dấu, bùn đỏ niêm phong”. Họ nói với nhau rằng: “Hà Đồ sẽ nói cho vua thời gian, người biết chúng tôi là Trùng Đồng Hoàng Diêu”. Ngũ lão hát xong, phút chốc hóa thành năm sao băng, hào quang rực rỡ, bay về phía chân trời, phương vị nằm ở cung sao Mão. Hiện nay phía tây nam huyện Ngu Thành, thành phố Thương Khâu, tỉnh Hà Nam có núi Ngũ Lão.

Quân thần vua Nghiêu thảy đều giật mình, vua Nghiêu hỏi Thuấn: “Năm vị cao niên này nói khanh biết họ, họ rốt cuộc là Thần linh nào?”

Thuấn đáp: “Tối hôm qua thần nằm ngửa ngắm sao trời, phát hiện ngũ tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ trên trời đột nhiên không còn, quả là kỳ lạ, hóa ra họ cùng nhau hạ phàm tới đây du ngoạn. Theo thần thấy thì, năm vị lão niên này nhất định là Thần của ngũ tinh biến thành”.

Vua Nghiêu nói: “Họ nói Hà Đồ sẽ tới, chắc hẳn ở sông này sẽ xảy ra điều thần kỳ”.Thế là vua Nghiêu dẫn dắt quần thần trai giới tắm rửa, lệnh cho Thái sử chọn ngày lập đàn tại bờ sông Quy xanh biếc, và chọn được thời gian hành lễ là vào ngày Tân Sửu tháng 2 trước khi trời sáng.

Ngũ Lão xem Hà Đồ
Hoa văn trên hành lang ở Di Hòa Viên tại Bắc Kinh: Ngũ lão xem Hà Đồ

Đến rạng sáng ngày Tân Sửu, qua mấy ngày trai giới tắm rửa, vua Nghiêu dẫn dắt quần thần, đi lên đàn tế lễ, cảnh tượng long trọng trang nghiêm. Vua Nghiêu đem một khối bạch ngọc thả xuống dòng sông, để làm lễ đối với thiên địa Thần linh. Hành lễ xong, mọi người xuống đàn nghỉ ngơi một lúc, rồi lại lên đàn chờ Hà Đồ đến. Vào thời khắc đó, bầu trời sáng lên, dõi mắt nhìn về nơi xa thấy nước sông cuồn cuộn không thôi. Sau khi mặt trời lên cao được ba sào, chợt thấy dưới sông phát ra một quầng sáng ngũ quang thập sắc, sáng chói cả mắt. Không lâu sau, mọi người thấy trong sông lộ ra một làn khí trong mịt mù, như khói như mây, như tơ như bông, như xa như gần, hòa lẫn cùng quầng sáng xán lạn kia, trong chớp mắt, ngập tràn khắp trời đất. Qua một lúc sau, một làn mây trắng bao quanh trên núi dâng lên rồi bay thẳng lên bầu trời, che khuất vạn dặm trời xanh. Tiếp đó cuồng phong nổi lên, cây cối phiêu diêu, lập tức thiên hôn địa ám. Rồi chợt thấy nước sông cuộn trào mãnh liệt, một con rồng dài ngẩng đầu lên nhô khỏi mặt nước, mọi người tập trung nhìn vào, thì ra là một con Long mã.

Long mã trong miệng ngậm một vật màu xanh biếc, leo lên đàn tế, nhả vật nằm trong miệng xuống, rồi lập tức quay mình nhảy xuống sông, thóang chốc gió tan mây tạnh, trời cao xanh biếc, ánh sáng đẹp tươi sáng trong lành trở về như trước. Đế Nghiêu dẫn quần thần tiến lên quan sát, thì ra đó là một hộp ngọc, hình dạng rất giống mai rùa, lưng rộng chín thước, trên thân hộp có màu vàng kim, được buộc lại bằng dây ngọc màu xanh. Đế Nghiêu sai người mở ra, quả nhiên là bức Hà Đồ, phía trên ghi chép rõ ràng vị trí của tinh tú nhật nguyệt trên trời, mạch lạc của núi sông ở dưới đất, đại số về thay đổi đế vương ở thế gian, cuối cùng còn viết “Khải sắc thụ đế Thuấn, Ngu đương thụ thiên mệnh” (Trao đế mệnh cho Thuấn, Ngu nhận mệnh Trời).

Theo “Thượng Thư ‧ Trung Hậu Ác Hà Kỷ” ghi chép: “Vua Nghiêu tại vị bảy mươi năm, ngày Giáp tháng Hạ Trọng, đến nơi của Thần Nông để tế lễ. Tế phẩm chìm vào trong nước, lập tức, ánh sáng ngũ sắc từ sông tỏa ra, khí đẹp bay bốn cõi, rực rỡ lấp lánh. Mây trắng theo gió bay dần lên, Long mã ngậm hộp vào miệng, bay vọt lên trên đàn. Hình dạng hộp giống như mai rùa, dài rộng chín thước, trên có chữ viết là sau Nghiêu là Ngu, Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán nhận Thiên mệnh. Nghiêu Đế ghi chép lại, cất giữ bí mật.

Ngày Trọng Tân tháng 2 năm sau, vua Nghiêu lại dẫn dắt quần thần đi đến sông Lạc, lập đàn tế Thần, thả ngọc xuống sông Lạc. Tế lễ xong, lui xuống tế đàn, đến khi mặt trời lặn ở phía tây, bỗng nhiên trông thấy dưới sông Lạc lộ ra một tia sáng đỏ, rồi thấy một con rùa lớn mang cuốn sách đi ra, dừng ở đàn tế, nghiêng thân một bên, vật ở trên lưng rơi vào trong đàn. Rồi con rùa lớn vẫn như cũ nhảy xuống sông Lạc mà đi. Hóa ra đó là cuốn sách làm từ mai rùa, văn tự màu đỏ, sách đó nói cần phải nhường ngôi cho Thuấn.

Vua Nghiêu nói: “Rồng ngậm Hà Đồ, rùa mang Lạc Thư, biểu thị thiên tượng, Thiên mệnh không thể trái!” Ý chỉ của Thần triển hiện trên Hà Đồ và Lạc Thư đều nói cần nhường ngôi lại cho Thuấn, cho nên vua Nghiêu không còn do dự nữa, quyết định chọn ngày tốt nhường ngôi cho Thuấn.

Vào ngày mồng một tháng Giêng tại miếu Văn Tổ, vua Nghiêu long trọng cử hành nghi thức nhường ngôi cho Thuấn, thay thế ông thi hành chính sách của thiên tử. Vua Nghiêu vì để Thuấn toàn quyền hành sự, quyết sách độc lập, không phải việc gì cũng xin chỉ thị, và cũng để ông có thể rời khỏi chính sự, an dưỡng tuổi già, nên đã sai người xây dựng một cung điện tại Thành Dương ở phía bắc Đào Ấp (nay là phía đông nam huyện Bộc Dương, tỉnh Hà Nam), làm nơi tu dưỡng của Đế Nghiêu.

Thuấn sau khi tiếp nhận ngôi vị liệt ra bảy hạng mục chính sự (Thất chính) gồm: tế tự, ban thụy (ban ngọc phân thứ bậc tước phẩm), đông tuần, nam tuần, tây tuần, bắc tuần, quy cách nghệ tổ (tuần thú ngũ nhạc rồi về báo cáo với tổ tiên ở miếu Thái tổ).

10. Minh tỏ thiên tượng để trị sửa Thất chính

“Thượng Thư ‧ Thuấn Điển” chép rằng: “Dựa vào tuyền cơ ngọc hành (Khí cụ quan sát thiên văn, thiên tượng) để trị sửa Thất chính”. Chính là nói vua Thuấn thông qua quan sát thiên tượng để xem xét phải chăng bảy hạng chính sự phù hợp với thiên ý. tuyền cơ ngọc hành là công cụ quan trắc thiên văn thời kỳ thượng cổ. Vào thời Thượng cổ, đều xem việc quan trắc thiên văn, thiên tượng là chuyện quan trọng nhất, thông qua quan sát thiên tượng và sự vận hành tinh tú nhật nguyệt, mà khảo sát chấp chính đúng hay sai, có phù hợp với Thiên Đạo không. Lấy Thiên Đạo soi xét sự việc của con người, đạt đến “Hợp đức với trời đất, hợp thứ tự với bốn mùa”, khiến hành vi không lệch khỏi Thiên Đạo. Đây chính là lý niệm “thiên nhân hợp nhất” của văn hóa truyền thống Á Đông.

11. Thái Sơn phong thiện

 Thuấn sau khi tiếp nhận ngôi vị, thi hành chính sách của thiên tử, tuần sát tứ phương, việc thứ nhất cần làm chính là cúng tế thiên địa, nhật nguyệt tinh tú cùng các Thần. Tháng hai, vua Thuấn đến phương đông tuần sát, đến Thái Sơn, sau khi trai giới tắm gội liền cử hành Thái Sơn phong thiện, tức cử hành nghi thức quy mô lớn cúng tế thiên địa, báo cáo lên Trời. “Phong”, chính là tế Trời, “Thiện”, chính là tế Đất.

Nghi thức cúng tế trang nghiêm long trọng, đầu tiên là tế bái thiên địa, thành kính cảm ân Hoàng Thiên Hậu Thổ, báo cáo lên Sáng Thế Chủ rằng đã nhận mệnh Trời ban. Sau đó cúng tế nhật nguyệt tinh tú. Tiếp theo đốt củi lửa, ánh lửa bừng bừng chiếu sáng khắp cả trời đất, đồng thời chuông trống vang rền, có vũ công nhảy múa theo âm nhạc, ngợi ca Thiên Đế, khẩn cầu Thượng Thiên phù hộ. Toàn bộ nghi thức cúng tế rất trang nghiêm thần thánh.

Sau đó dùng nghi thức dao tế để bái vọng cúng tế danh sơn đại xuyên các nơi.

Thái Sơn phong thiện từ xưa đến nay, Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc; Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang… đều từng lên núi Thái Sơn hành lễ phong thiện, báo cáo lên Trời, đáp tạ ơn được “nhận mệnh Trời ban”.

Tiếp theo, vua Thuấn triệu kiến các chư hầu phương đông.

Ngu Thuấn sau khi trở thành thiên tử, chế định hoàn thiện các chế độ ở các phương diện. Quy định thụy ngọc cùng các vật phẩm khác cho 5 phẩm vị chư hầu là công, hầu, bá, tử, nam cầm theo khi yết kiến thiên tử. Có nghĩa là 5 loại tín phù yết kiến thiên tử: tước Công cầm ngọc hoàn khuê, tước Hầu cầm ngọc thư khuê, tước Bá cầm ngọc cung khuê, tước Tử cầm ngọc cốc bích, tước Nam cầm ngọc bồ bích. Ông còn chế định các biện pháp thưởng phạt. Vua Thuấn còn quy định y phục quan chức theo các cấp tước vị, cấp bậc.

Tháng năm, vua Thuấn đến phương nam tuần sát, đến Hành Sơn, và cử hành nghi lễ cúng tế giống như ở núi Thái Sơn.

Tháng tám, vua Thuấn đến phương tây tuần sát, đến Hoa Sơn, nghi lễ cúng tế cũng cử hành giống như ở núi Thái Sơn.

Tháng mười một, vua Thuấn đến phương bắc tuần sát, đến Hằng Sơn, nghi lễ cúng tế cũng cử hành giống như ở núi Thái Sơn.

Về sau Ngu Thuấn cách mỗi 5 năm tuần sát cả nước một lần. Trong bốn năm không tuần sát, các chư hầu đến hạn lại đến đế độ triều kiến, báo cáo lên triều đình các thành tích, chính sách đúng sai. Thuấn áp dụng 3 năm khảo sát một lần, 5 năm tuần sát một lần, xác định rõ quan hệ phụ thuộc giữa triều đình và chư hầu các địa phương, đặt định cấu trúc một thiên hạ thống nhất.

12. Thiết lập hình pháp

Thuấn để Cao Đào phụ trách tư pháp, ông cho rằng chỉ dùng đến hình phạt khi vạn bất đắc dĩ. Trước tiên là dùng biện pháp giáo hóa, khiến mọi người biết làm điều thiện, không làm điều ác. Rồi thay vì khiến họ sợ hãi trước hình phạt, thì tốt hơn là khiến họ xấu hổ trước hình phạt.

Hình luật chế định lúc ấy là: Vẽ hình phạt lên y phục cho các hình phạt thông thường; lưu đày thay cho 5 loại hình phạt; đánh bằng roi là hình phạt cho các quan lại; dùng thước đánh là hình phạt giáo hóa; phạt tiền là hình phạt chuộc tội. 

Lấy hình phạt vẽ làm hình phạt thông thường, hình phạt vẽ chính là hình phạt thường dùng, tức là vẽ hình lên quần áo và đồ dùng để cảnh cáo, khiến họ biết xấu hổ mà sửa đổi. Dùng hình phạt lưu đày thay thế cho năm hình phạt cắt mũi, chặt chân, xăm hình, thiến, chặt đầu, thể hiện sự khoan hồng. Đối với người trong quan phủ phạm tội thông thường chỉ dùng roi đánh. Đối với học trò trong học phủ không theo quản giáo chỉ dùng thước gỗ đánh. Người không có động cơ phạm tội nhưng thực tế lại phạm tội thì thuộc về phạm tội không có chủ ý, có thể thông qua hình phạt nộp tiền vào quốc khố để chuộc tội, điều này trong pháp chế sau này vẫn được sử dụng theo. 

Vào thời vua Thuấn, đã có tương đối nhiều quy định hơn về quản lý nhân sự. Sách “Văn hiến thông khảo ‧ Chức quan khảo nhất” có viết: “Thời Đào Đường thị (tức vua Nghiêu) trở về trước, việc trị sửa của bá quan là thờ phụng Trời. Từ thời Ngu (tức vua Thuấn) và Hạ trở về sau, việc trị sửa của bá quan là phục vụ dân. Vua Thuấn lấy đạo đức làm căn bản giáo hóa vạn dân, khai sáng giáo dục, thiết lập hình pháp, định kỳ tuần sát tứ phương. Hình pháp là phương thức cưỡng chế trong quản lý nhà nước, việc tăng cường hình pháp cho thấy có chức năng quản lý nhà nước trong giai đoạn này. Thời kỳ này, hệ thống quản lý giáo dục, thưởng phạt được tăng cường.

Nguồn Epoch Times

Link bài dịch từ NTD Việt Nam

Xem tiếp Chương 5: Vũ bình thủy thổ sáng Thần Châu

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x