Tam Tự Kinh: Đọc sách luận bút (9)

Tam Tự Kinh - tập 9: Viết Nhân Nghĩa, Lễ Trí Tín
Tam Tự Kinh – tập 9: Viết Nhân Nghĩa, Lễ Trí Tín

Bài 9

Nguyên văn

曰仁(1)義(2)禮(3)智(4)信(5)
此五常(6) 不容(7)紊(8)

Bính âm

曰(yuē)          仁(rén)             義(yì) ,             禮(lǐ)             智(zhì)             信(xìn) ,
此(cǐ)             五(wǔ)             常(cháng) ,         不(bù)          容(róng)          紊(wèn ) 。

Chú âm

曰(ㄩㄝ)            仁(ㄖㄣˊ)             義(一ˋ),
禮(ㄌ一ˇ)           智(ㄓˋ)                 信(ㄒ一ㄣˋ),
此(ㄘˇ)               五(ㄨˇ)                 常(ㄔㄤˊ),
不(ㄅㄨˋ)           容(ㄖㄨㄥˊ)         紊(ㄨㄣˋ)。

Âm Hán Việt

Viết Nhân Nghĩa, Lễ Trí Tín,
Thử ngũ thường, Bất dung vấn.

Tạm dịch

Rằng: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín,
Với Ngũ thường này, không được rối loạn.

Từ vựng

(1) Nhân (仁): lòng dạ yêu quý con người làm lợi cho vật.
(2) Nghĩa (義): chuyện chính đáng phù hợp lẽ phải.
(3) Lễ (禮): Biểu đạt lòng yêu mến, tôn kính, khiêm nhượng, cảm tạ, những thiện ý ân cần thăm hỏi, luôn giữ lễ độ, lễ phép trong lời lẽ.
(4) Trí (智): khả năng suy nghĩ thận trọng phân biệt rõ ràng.
(5) Tín (信): Thái độ và ngôn hành thành thật không lừa dối.
(6) Thường (常): đạo lý vĩnh hằng bất biến (mãi mãi không thay đổi).
(7) Dung (容): cho phép.
(8) Vấn (紊): rối, loạn, rối ren.

Dịch nghĩa tham khảo

Nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đây là năm phép tắc bất biến, là chuẩn tắc (nguyên tắc chuẩn mực) của xử sự làm người. Lòng dạ ái nhân lợi vật (yêu quý con người làm lợi cho vật) gọi là “Nhân”, chuyện chính đáng phù hợp lẽ phải gọi là “Nghĩa”; khiêm nhượng lễ độ gọi là “Lễ”; khả năng suy nghĩ thận trọng phân biệt rõ ràng gọi là “Trí”; thái độ và ngôn hành thành thật không lừa dối gọi là “Tín”. Mỗi cá nhân đều nên tuân thủ, không được phép làm rối loạn một chút nào.

Đọc sách luận bút

1. Đạo lý Nhân nghĩa ngũ thường bây giờ ở đâu?

Bài trước nói về Ngũ hành, bài này sẽ nói về Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đây là năm điểm chính lớn trong truyền thống làm người. Ấy chính là những thứ bị Trung Cộng kết liễu, muốn người Trung Quốc chà đạp xuống đất, để vĩnh viễn “Ngũ thường” 五常 trong “Tam cương Ngũ thường” 三綱五常 không thể sống trở lại. Con người không biết Ngũ thường là như thế nào, sợ nó như ma quỷ, rắn độc. Bởi vì bị Trung Cộng kiểm soát cho nên《 Tam Tự Kinh 》đã bị buộc phải rút khỏi vũ đài giáo dục, được thay thế bằng lý luận đấu tranh giai cấp của đấu tranh và hận thù.

Nói đến thật đau lòng, năm chữ này chỉ là Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, đều là đạo lý để làm người tốt, thế nhưng Trung Quốc đã mất đi năm chữ này, hỏi trẻ em hay thậm chí hỏi học sinh đại học thế nào gọi là Ngũ thường, hầu như không ai biết. Trẻ em không được tiếp xúc với năm chữ này, trong sinh hoạt, sách giáo khoa đều không ai nhắc đến, người lớn và trẻ em ngày nay trong miệng chỉ có hai chữ danh lợi. Hậu quả là số phận của nền giáo dục truyền thống bị khai trừ, chính là đạo đức bị bại hoại toàn diện. Do đó, chúng ta không thể không từ căn bản, từ giáo dục mầm non một lần nữa phục hưng lại văn hóa của chính mình.

Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín là cốt lõi của giáo dục Nho gia, bất kể trải qua mấy ngàn năm từ khi Khổng Tử khai sáng, bất kể đời sau xuất ra bao nhiêu luận thuật của các gia, cốt lõi của nó cũng là năm chữ này. Mà cốt lõi của cốt lõi chính là hai chữ ‘Nhân Nghĩa’ 仁義, là căn bản của Khổng Tử đặt ra.

2. Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, đừng quên ‘Nhân Nghĩa’ là gốc

‘Nhân’ 仁 và ‘nhân’ 人, đồng âm cũng đồng lý (giống đạo lý), chữ ‘nhân’ 仁 do chữ ‘nhân’ 人 và chữ ‘nhị’ 二 ghép thành, có nghĩa là khi người với người chung sống, phải thiện đãi với nhau, đối với người phải có tâm quý trọng, tâm nhân từ. Triển khai ra rất là phong phú. Bởi vì con người chung sống với nhau, dựa vào thân phận, địa vị, lớn nhỏ khác nhau, mà nội dung cụ thể tất nhiên sẽ khác nhau, dù quan hệ giữa con người có phức tạp đến đâu thì trên thực tế cũng chính là hai chữ ‘thiện đãi’ 善待. Ví dụ, lúc bé tiếp xúc với cha mẹ, anh chị em, ở vai trò cha mẹ mà nói, khi đối diện với con cái, thì mình là bề trên, đối với con cái cần phải dưỡng dục, làm tròn trách nhiệm của cha mẹ, cho con ăn uống mạnh khỏe, mặc cho đủ ấm, chăm sóc bảo vệ khi ốm đau, chú ý an toàn, làm người gương mẫu, coi trọng đức dục, bồi dưỡng kỹ năng sinh tồn, v.v. , yêu quý và giáo dục mọi bề.

Con cái là vãn bối (thế hệ sau) phải biết cảm ân cha mẹ, thái độ cung kính, ngôn ngữ ôn hòa, đền đáp ân dưỡng dục của cha mẹ. Đối với cha mẹ phải phụng dưỡng hết đời, có thể an hưởng tuổi già, chăm sóc tận tâm.

Bởi vì mối quan hệ cha con, đặc trưng then chốt nhất, chính là trách nhiệm và cảm ân. Trách nhiệm của cha mẹ: sinh con, nuôi nấng và giáo dục, đây là Thiện lớn nhất. Con cái đối với cha mẹ chính là cảm ân và hồi báo, luôn luôn mang trong lòng tâm cảm ân, lấy thái độ cung kính đối đãi với cha mẹ, hồi báo đại ân cha mẹ đã vô tư phó xuất.

Mối quan hệ gia đình là nền tảng của quan hệ xã hội, biết hiếu đễ, liền biết được cách người thiện đãi người như thế nào, vì vậy khi ra ngoài xã hội, bạn sẽ phát hiện ra rằng cấp trên luôn coi trọng, gánh trách nhiệm đối với cấp dưới, quan tâm chăm sóc cấp dưới. Người làm quan cũng giống như là cha mẹ của dân chúng, phải chăm lo cho sự sinh tồn và cải thiện nếp sống đạo đức của dân chúng, trở thành người gương mẫu. Người dưới chủ yếu coi trọng thái độ khiêm cung và cảm ân. Đây là xã hội chính thường.

Chữ ‘Nghĩa’義 thường gắn liền với các từ chính nghĩa, nghĩa vụ, nghĩa vô phản cố (làm việc nghĩa không chùn bước; việc nghĩa chẳng từ nan), nghĩa bất dung từ (việc nghĩa chẳng từ chối), xả thân thủ nghĩa (bỏ mình lấy nghĩa), đại nghĩa diệt thân (vì nghĩa lớn quên tình nhà), v.v … Chính là nói chiểu theo lẽ phải để làm người, làm việc. Tuyệt đối không được phép chẳng phân đúng sai, có bất cứ tư tình nào đó mà xử lý công việc. Bởi vậy ‘nhân nghĩa’ 仁義 hay hợp lại cùng nhau, trở thành nhân cách quy phạm hoàn mỹ không mang chút tư tình nào.

‘Lễ’ 禮 là biểu hiện hình thức cố định bên ngoài của ‘Nhân’ 仁, thuận tiện biểu đạt tâm thiện ý của mình tốt hơn, vì vậy với trường hợp thân phận, lớn nhỏ khác nhau, ngôn hành lễ nghĩa cũng khác nhau.

Đến ‘Trí’ 智, thật ra, trí tuệ lớn nhất khi làm người thời cổ đại là biết phân biệt đúng sai, để tự mình trước sau không lạc mất chính đạo, vì vậy mới có câu thành ngữ “đại trí nhược ngu” (bậc đại trí giống như ngu dốt, ý tứ là người có trí tuệ cao thường rất khiêm tốn, không để lộ tài năng, thoạt nhìn lại có vẻ chất phác, chậm chạp, ngu ngơ), “lợi lệnh trí hôn” (cái lợi làm tâm trí mờ tối) để khuyên can thế nhân, ngược lại khôn vặt lại hại mình, người bất nhân, vì cái nhỏ mà đánh mất cái lớn, cho nên, thông minh quá sẽ bị thông minh hại. Không tham tài, biết đủ, thường có tâm khiêm cung và cảm ân, mới có thể phù hợp thiên đạo, cả đời bình an có phúc.

‘Trí’ 智, xưa nay vẫn thuộc về phạm vi của ‘Nhân đức’ 仁德.

Đến ‘Tín’ 信, thời hiện đại đề cập đến nhiều nhất, một người không uy tín thì sẽ mất lòng người, đương nhiên đây chính là điều rõ ràng nhất của một người không tốt; biết giữ ‘Tín’, chí ít thì đó là người không làm hại bạn, cũng là người tốt, cũng ở phạm vi của ‘Nhân’ 仁, đây là yêu cầu thấp nhất của ‘Nhân’ 仁, cũng là yêu cầu thường gặp nhất trong giao tiếp xã hội, vì vậy nó được liệt kê sau cùng.

Trung Quốc thời cổ đại thủy chung coi trọng sinh mệnh, lấy ‘Nhân Nghĩa’ 仁義 làm căn bản. Ngoài đức tin ngu muội ra, thì không thể ‘trợ Trụ vi ngược’, nếu hứa với người, hoặc vì người làm việc nào đó toàn tâm toàn ý, song lại phát hiện ra điều ‘thương thiên hại lý’ (tổn hại thiên lý), hại người thì không thể làm, nhất thiết phải lấy ‘Nhân Nghĩa’ làm gốc. Đây cũng là đạo lý Ngũ thường mà người Nhật Bản lấy từ Trung Quốc, song tinh thần võ sĩ đạo giảng ‘Trung nghĩa thành tín’ là khác và tương đối hẹp hòi, không lấy ‘Nhân Nghĩa’ làm hạch tâm mà giảng ‘Trung tín’ 忠信, thế nên võ sĩ đạo Nhật Bản xuất hiện ra hiện tượng tàn nhẫn, không trân quý sinh mệnh. Ngay cả như vậy, hai chữ ‘Lễ’ 禮, ‘Tín’ 信 mặc dù hiểu biết có hạn, cũng đã mang lại lợi ích không nhỏ cho người Nhật Bản ngày nay. Trung Quốc hôm nay thì chỉ một điểm thôi cũng không làm được. Coi thường sinh mệnh, tuyên dương tranh đấu hận thù, bạo lực và nói dối của văn hóa đảng khiến người ta phải hãi nhãn kinh tâm.

Câu chuyện “Kẻ bội tín quên nghĩa mất hết tất cả”

Ngu Phù là người bán sơn thuộc nước Việt thời Xuân Thu, cùng thời với Kế Nhiên và Phạm Lãi, không cam chịu sống đời nghèo khổ, nhìn thấy bạn bè nhờ buôn bán mà trở nên giàu có, nên cũng nóng lòng muốn thử buôn bán. Đầu tiên ông tìm đến Kế Nhiên để thỉnh giáo cách làm giàu, Kế Nhiên nói với Ngu Phù: “Hiện nay nguồn tiêu thụ sơn rất tốt, sao anh lại không trồng một ít cây sơn để lấy sơn đi mà bán?” Ngu Phù nghe xong trong lòng vui mừng, liền hỏi Kế Nhiên về kỹ thuật trồng sơn, Kế Nhiên trả lời cặn kẽ, kiên nhẫn chỉ bảo. Sau khi trở về nhà, Ngu Phù thức khuya dậy sớm cần cù làm việc, cuối cùng đã khai khẩn được một vườn sơn với quy mô rất lớn.

Sau ba năm cây sơn đã to lớn, Ngu Phù vô cùng vui mừng. Bởi vì nếu có thể lấy được hàng trăm thùng sơn thì đã có thể kiếm được rất nhiều tiền. Thế rồi Ngu Phù chuẩn bị chuyển những thùng sơn lấy được đến nước Ngô để bán, đúng lúc đó có anh vợ đến thăm và nói với Ngu Phù: “Anh thường đến nước Ngô buôn bán, nên biết được ở đó người ta bán sơn thế nào, nếu làm tốt thì có thể có lãi gấp mấy lần đấy!”

Ngu Phù nóng lòng phát tài, lại hỏi làm thế nào mới kiếm được nhiều tiền hơn, anh vợ Ngu Phù nói: “Ở nước Ngô, sơn bán rất dễ, ta nhìn thấy không ít người nấu lá cây sơn thành cao, rồi dùng cao đó trộn vào sơn để bán, như thế có thể lãi được gấp mấy lần đấy, mà người nước Ngô lại không phát hiện được.” Ngu Phù nghe xong, ngày đêm nhặt lá sơn để nấu cao, xong rồi vận chuyển cao và sơn đến nước Ngô.

Khi đó bởi vì quan hệ nước Ngô và nước Việt vô cùng căng thẳng, không buôn bán qua lại được, nên sơn ở nước Ngô vô cùng hiếm. Lái buôn sơn ở nước Ngô nghe nói Ngô Phù mang sơn đến bán, họ vui mừng không ngớt, còn chạy cả ra ngoài thành để đón Ngu Phù, lại còn sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho anh. Ở chỗ trọ, các lái buôn sơn nước Ngô vừa nhìn thấy sơn của Ngô Phù đúng là loại tốt, bèn thương lượng về giá cả, xong rồi dán niêm phong và hẹn ngày mai đến giao tiền lấy hàng.

Đợi những người buôn sơn rời khỏi, Ngu Phù bèn dỡ niêm phong, suốt đêm anh đổ cao sơn nấu sẵn vào trộn lẫn với sơn. Không ngờ do bận tay bận chân, nên vẫn để lại dấu vết. Hôm sau, các lái buôn đến như đã hẹn, họ phát hiện niêm phong trên thùng sơn có dấu vết bị bóc, nên họ nghi ngờ, rồi mượn cớ không đưa tiền và nói vài ngày nữa sẽ quay lại.

Ngu Phù ở trong quán trọ đợi mấy ngày cũng chẳng thấy mặt mũi những người buôn sơn đâu. Thời gian kéo dài, cao sơn bị trộn lẫn trong thùng sơn biến chất và hỏng. Kết quả, Ngu Phù không bán được chút sơn nào, cuối cùng phải đổ đi hết. Người buôn sơn nước Ngô nghe tin xong, đều phê bình anh ta rằng: “Người làm buôn bán cần phải thành tín, chất lượng hàng hóa thì không thể lừa người được, hôm nay anh rơi vào tình cảnh này, có ai lại thương hại anh chứ?”
Ngu Phù không còn tiền để về nước, đành ở nước Ngô ăn xin mà sống, lại thường bị người ta chế giễu, cuối cùng vì khốn cùng chán nản mà chết nơi đất khách quê người.

Câu chuyện này khuyên bảo mọi người rằng thương nhân không thủ tín sẽ chịu hậu quả trực tiếp, chính là mất đi lợi ích, cho nên nói, cho dù hành vi mua bán là vì kiếm tiền, cũng phải chú trọng đến tiêu chuẩn làm người thấp nhất, nếu không, mất đi thành tín, liền mất đi hết thảy. Thành tín là mạch sống đáng giá nhất của thương nhân. Cho dù có người có thể thỉnh thoảng gạt người thành công, thu được lợi ích nhất thời, cũng không có cách nào lâu dài. Nhân nghĩa và lợi ích vốn là nhất thể, đạo lý này đối với con người hiện tại mà nói, thì có vẻ rất là trọng yếu, vì ngày nay thương nghiệp làm chủ xã hội. Mà tại Trung Quốc, trong xã hội phổ biến là đã mất đi thành tín, ai có thể giữ vững thành tín, ai có thể thu được lòng cảm ân của dân chúng, thì sẽ trở thành vật báu hiếm thấy, còn hao tốn tâm lực tìm cách lừa tiền tài của người khác, được chút tiền mà đánh mất cả hai, không bằng thu được lòng người, thu được tín nhiệm của dân chúng ấy mới là thông minh. Con đường làm giàu ngay chỗ này đây.

Chú thích:
[1] Chữ cách trong “cách mạng” còn có nghĩa là cắt đứt, loại bỏ, như trong cách chức. Hiểu theo bề mặt chữ nghĩa, cách mạng còn có nghĩa là cắt mất cái mạng, tức là giết chết.
[2] Bậc đại trí trông giống như ngu dốt, ý tứ là người có trí tuệ cao thường rất khiêm tốn, không để lộ tài năng, thoạt nhìn lại có vẻ chất phác, chậm chạp, ngu ngơ.

Tác giả: Lưu Như

Nguồn ChanhKien.Org

Xem Tam Tự Kinh – Tập 10: Câu chuyện nguồn gốc cây lúa

Video tham khảo: Kẻ bội tín quên nghĩa, mất hết tất cả

Tam Tự Kinh - Tập 9 - Kẻ bội tín quên nghĩa, mất hết tất cả
Tam Tự Kinh – Kẻ bội tín quên nghĩa, mất hết tất cả (Nguồn Chánh Kiến)

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x