Tam Tự Kinh: Đọc sách luận bút (4)

Tam Tự Kinh - tập 4 - Ngọc bất trác, bất thành khí
Tam Tự Kinh – tập 4 – Ngọc bất trác, bất thành khí

Bài 4

Nguyên văn

玉(1)不琢(2) 不成器(3)
人不學 不知義(4)
為(5)人子 方(6)少時(7)
親(8)師(9)友(10) 習禮儀(11)

Bính âm

玉(yù)          不(bù)          琢(zhuó),    不(bù)           成(chéng)           器(qì),
人(rén)         不(bù)          學(xué),      不(bù)           知(zhī)                義(yì) 。
為(wéi)        人(rén)         子(zǐ),          方(fāng)        少(shào)            時(shí),
親(qīn)         師(shī)         友(yǒu),       習(xí)            禮(lǐ)                   儀(yí)。

Chú âm

玉(ㄩˋ)               不(ㄅㄨˋ)           琢(ㄓㄨㄛˊ),
不(ㄅㄨˋ)           成(ㄔㄥˊ)           器(ㄑ一ˋ),
人(ㄖㄣˊ)           不(ㄅㄨˋ)           學(ㄒㄩㄝˊ),
不(ㄅㄨˋ)           知(ㄓ)                義(一ˋ)。
為(ㄨㄟˊ)           人(ㄖㄣˊ)           子(ㄗˇ),
方(ㄈㄤ)            少(ㄕㄠˋ)           時(ㄕˊ),
親(ㄑ一ㄣ)        師(ㄕ)                友(一ㄡˇ),
習(ㄒ一ˊ)           禮(ㄌ一ˇ)           儀(一ˊ)。

Âm Hán Việt

Ngọc bất trác, Bất thành khí.
Nhân bất học, Bất tri nghĩa.
Vi nhân tử, Phương thiếu thời,
Thân sư hữu, Tập lễ nghi.

Tạm dịch

Ngọc không mài giũa, không thành đồ quý.
Người mà không học, không biết nghĩa lý.
Là một người con, đương khi còn nhỏ,
Gần gũi thầy bạn, luyện tập lễ nghi.

Từ vựng

(1)Ngọc (玉): là chất liệu cứng rắn, bề mặt nhẵn bóng, trong mờ, là một loại đá mềm rất đẹp, thường được dùng làm đồ trang sức hoặc điêu khắc.
(2)Trác (琢): mài, giũa, đẽo gọt để gia công ngọc thạch.
(3)Thành khí (成器): chế tác thành vật dụng đẹp và tinh xảo, cũng dùng để hình dung một người thành tài, có thành tựu.
(4)Nghĩa (義): hợp với lẽ phải, đúng với đạo lý.
(5)Vi (為): là, làm, đảm nhiệm.
(6)Phương (方): đương, tại, lúc, khi.
(7)Thiếu thời (少時): tuổi nhỏ, lúc còn trẻ tuổi.
(8)Thân (親): tiếp cận, gần gũi, thân thiết.
(9)Sư (師): người có thể nhắc nhở hoặc dạy bảo chúng ta đạo lý xử thế làm người.
(10)Hữu (友): bạn bè, ở đây chỉ người bạn có thể thúc đẩy phẩm đức chúng ta đề cao.
(11)Lễ nghi (禮儀): quy phạm và nghi thức lễ tiết.

Diễn giải tham khảo

Một hòn đá ngọc, nếu không trải qua quá trình mài giũa cẩn thận thì không thể trở thành vật tinh mỹ và hữu dụng. Con người cũng vậy, dù cho có tư chất tiên thiên rất tốt, nhưng không nỗ lực học tập thì cũng không cách nào hiểu được đạo lý đối nhân xử thế.

Là con cái, cần phải tranh thủ lúc còn trẻ mà năng gần gũi với thầy tốt, kết giao với bạn hiền, khiêm tốn tiếp nhận những lời giáo đạo và khuyên răn, đồng thời cũng học tập lễ nghi tiến thoái, xử sự, ứng đối, đãi nhân cho thành thục.

Đọc sách luận bút

Do ngôn ngữ đơn giản, hàm nghĩa mấy câu này hầu như đọc qua hiểu liền, bốn câu đầu, là câu nhân quả chuyển tiếp, cũng là trực tiếp khuyên bảo con em, ba bài trước nói rõ giáo dục lấy đức dục làm gốc, cha mẹ và giáo viên cần phải chú trọng nền tảng giáo dục, bắt đầu chính thức đi vào giáo đạo cụ thể cho con em, dùng hình ảnh ngọc thạch cần phải gia công điêu khắc tỉ mỉ mới có thể trở thành vật hữu dụng, ví như để người trưởng thành, cũng cần phải tỉ mỉ bồi dưỡng và dạy bảo, nếu không “Người mà không học, không biết nghĩa lý”, không cách nào trở thành một nhân tài hữu dụng. Cốt lõi là nói cho con em tầm quan trọng của học tập và nghe lời dạy bảo, mà học tập chính là để hiểu được chính xác đạo lý làm người, nói cách khác, mục tiêu cuối cùng của học tập là vì để hiểu được “Nghĩa” lý (lẽ phải).

Học vấn truyền thống, hạch tâm nằm ở sáng tỏ đạo lý, chứ không phải nằm ở chỗ biết được tri thức bao nhiêu, từng trải bao nhiêu, bản sự bao nhiêu, rồi lấy đó để khinh thường người khác. Do đó trong mấy bài đầu Tam Tự Kinh nhấn mạnh điểm này, nếu như điểm này không làm rõ, sẽ làm mất đi ý nghĩa nghiên cứu học vấn, sẽ biến thành học sĩ hôi tanh, lòng dạ nhỏ mọn, thậm chí hết thảy tri thức và bản sự tài hoa có được sẽ thành vũ khí gây hại cho xã hội. Đây chính là tại sao học vấn truyền thống, thủy chung đem hai chữ Nhân nghĩa (仁義) bày ra đầu tiên.

Nhân nghĩa lễ (仁義禮), một mực là hạch tâm của quốc học, hạch tâm của Nho học, cũng chính là hạch tâm làm người của người Trung Quốc truyền thống, ở đây lấy một chữ Nghĩa, đại biểu cụ thể cho đức dục. Khổng Tử nhấn mạnh hai chữ ‘Nhân nghĩa’, mà ‘Lễ’, là biểu hiện ra bên ngoài của ‘Nhân nghĩa’ và là quy phạm rõ ràng, dân tộc khác nhau, lễ nghi cụ thể khác nhau, nhưng đều là vì thiện ý mà biểu đạt ra kính ý, tôn trọng, cảm ân, thăm hỏi, quan tâm giữa người với người.

Lấy một thí dụ, trên đường gặp người đi đường, nếu như là người quen biết, đối phương đối với bạn làm như không thấy, ánh mắt làm lơ, bạn nhất định có cảm giác không thoải mái, cảm nhận bị khinh thường, tự nhiên tình cảm bị tổn thương mà tức giận, ngược lại, đối phương chào hỏi, hỏi sức khỏe gần đây, bạn sẽ cảm thấy được người quan tâm coi trọng, do đó người Nhật Bản chú trọng lễ nghi truyền thống, cho dù là người xa lạ, cũng coi là người hữu duyên, sẽ thăm hỏi lẫn nhau. Lễ nghi thăm hỏi, sẽ dựa vào trường hợp, đối tượng, các mối quan hệ già trẻ xa gần khác nhau, hình thức cụ thể khác nhau, nhưng cuối cùng cũng là vì biểu đạt thiện ý giữa người đối với người.

Cho nên hiểu được trọng yếu của nhân nghĩa, hiểu được học tập là để minh bạch đạo lý làm người, dùng cái thiện này đãi người khác, như vậy chính là làm được yêu cầu sau 4 câu đầu tiên, bổn phận làm con em, từ nhỏ muốn có được nền tảng làm người tốt, cần phải thân cận thầy tốt bạn hiền, học tập lễ nghi đãi nhân cơ bản, vì làm vậy là để ngôn hành cử chỉ có thể biểu đạt ra thiện ý hợp tình hợp lý. Nếu không, sẽ làm tổn thương người khác và phát sinh các loại mâu thuẫn, hiểu lầm cùng tranh chấp, cuộc sống tất nhiên sẽ gặp trắc trở.

Bước đầu tiên của học tập chính là: Từ nhỏ theo thầy tốt bạn hiền học lễ nghi, học tập lễ nghi là phương thức thực hiện nội dung đạo lý khi đối đãi gặp gỡ người khác. Nếu không, thì dù có muốn làm việc nhân nghĩa, lại không có phương thức hành động cụ thể, trong lúc thiếu thận trọng sẽ sinh ra hiểu lầm hoặc tổn thương tới người khác. Thậm chí tạo nên ác duyên, bị người chê trách và phê phán. Đối với người, đối với mình đều không có nửa điểm có ích. Từ nhỏ dưỡng thành thói quen lấy lễ đãi người sẽ có ích cả đời, điều này rất là quan trọng, bằng không, khi hình thành thói quen xấu rồi muốn sửa đổi lại sẽ rất khó.

Câu chuyện Biện Hòa dâng ngọc và ngọc Hòa Thị Bích

Thời Xuân Thu, nước Sở có một người tên là Biện Hòa. Một hôm, Biện Hòa nhặt được một khối ngọc thô ở trên núi. Ông biết rằng đây là khối ngọc quý hiếm có, liền mang đi dâng cho Sở Lệ Vương. Sở Lệ Vương liền gọi thợ làm ngọc trong cung đến giám định khối ngọc này. Thợ làm ngọc nhìn qua, liền nói: “Đây chỉ là hòn đá bình thường mà thôi.” Lệ Vương cho rằng Biện Hòa mang đá đến lừa mình, liền sai người lôi Biện Hòa ra chặt chân trái của ông.
Sau khi Lệ Vương qua đời, Sở Vũ Vương kế vị. Biện Hòa lại đem khối ngọc thô đó đến dâng cho Vũ Vương. Vũ Vương lại sai người làm ngọc đến giám định. Thợ làm ngọc nói: “Đây chẳng qua chỉ là tảng đá thôi.” Vũ Vương cũng cho rằng mình bị Biện Hòa lừa, bèn sai người chặt chân phải của Biện Hòa.

Sau khi Vũ Vương qua đời, Sở Văn Vương đăng cơ. Lúc này, Biện Hòa ôm khối ngọc của mình, ở dưới chân núi khóc rống lên. Ông khóc ba ngày ba đêm, khóc đến cạn nước mắt, cuối cùng hai mắt ông đẫm máu. Văn Vương nghe được tin đó, liền sai người đến hỏi Biện Hòa: “Thiên hạ có biết bao nhiêu người bị hình phạt chặt mất hai chân, sao chỉ có mình ông lại khóc đau khổ thế này cơ chứ?” Biện Hòa trả lời: “Tôi không phải đau khổ vì chân mình bị chặt. Tôi đau lòng chính là một khối ngọc trân quý đã bị cho là tảng đá bình thường; còn người trung thành ngược lại bị qui thành kẻ lừa đảo!”

Sau khi Văn Vương biết được, liền sai thợ làm ngọc đem khối đá đó đi điêu khắc thử, quả nhiên phát hiện ra đây đúng là một khối bảo ngọc hiếm có trên đời. Loại ngọc quý giá này chính là ngọc “Hòa Thị Bích” vô cùng nổi tiếng trong lịch sử.

Câu chuyện này không thể nói rõ ràng hơn nữa, cho dù là trân bảo hiếm có, không trải qua công đoạn điêu khắc, thì dù phẩm chất gốc có tốt, bất quá cũng chỉ là một tảng đá vô dụng, sẽ không gây được chú ý, không có đất dụng võ. Làm cha làm mẹ, cần phải giống như Biện Hòa vậy, khổ sở bảo vệ bản tính nguyên gốc của con cái tựa như thiên tính trân quý của mỹ ngọc, để chúng theo học thầy tốt, kết giao bạn hiền, không ngừng gợi mở bản tính, phân rõ thiện ác, với đủ loại ảnh hưởng của hậu thiên vẫn có thể giữ vững nghĩa lý, cuối cùng được “điêu khắc” thành một khối mỹ ngọc chân chính. Có tâm yêu con, thì nên học Biện Hòa.

Tác giả: Lưu Như

Nguồn ChanhKien.Org

Xem Tam Tự Kinh – Tập 5: Hoàng Hương quạt gối ủ chăn

Video tham khảo: Biện Hòa dâng ngọc

Tam Tự Kinh - Tập 4 - Biện Hòa dâng ngọc
Video Tam Tự Kinh – Biện Hòa dâng ngọc (Nguồn Chánh Kiến)

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

5 1 vote
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x