Hán Vũ Đế (Chương 9): Chế độ sáng rõ – Vương Bá đều dùng

han vu de minh chan tuong
Hán Vũ Đế ( Epoch Times)

Trong lịch sử, Hán Vũ Đế được nhiều người ca tụng, đại thần nổi tiếng thời nhà Đường Ngu Thế Nam có một đoạn luận thuật sâu sắc: “Hán Vũ Đế kế thừa cơ nghiệp sáu đời, giàu có ân đức như biển rộng, lại có cao nhân trợ giúp, nên nắm toàn bộ anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, trong nước thì hưng thịnh lễ nhạc, bên ngoài thì mở rộng biên cương, chế độ hiến chương đều sáng rõ dễ hiểu”. Đoạn văn đã khái quát một cách cô đọng toàn bộ công tích cuộc đời của Hán Vũ Đế.

Trong các phần trước, chúng ta đã nói đến Hán Vũ Đế với tinh thần tiến thủ, cứ có tài là trọng dụng, trấn định tứ Di, vậy Ngu Thế Nam đánh giá “chế độ hiến chương đều sáng rõ dễ hiểu” là việc gì? Thực ra, Hán Vũ Đế khi bình định tứ Di thì cũng đồng thời tiến hành cải cách chế độ chính trị, chuẩn bị cho bước nhất thống thiên hạ. Trong phần này, chúng ta cùng tìm hiểu xem Hán Vũ Đế đã có những điều chỉnh nội chính quan trọng gì, mang ý nghĩa thế nào.

Suy ân lệnh

Như mọi người đã biết, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ xưng đế, phế bỏ chế độ cắt đất phong hầu từ thời Tây Chu, sửa đổi thành chế độ đặt quận huyện. Nhưng Hán Cao Tổ Lưu Bang do cần sự ủng hộ để đối phó Hạng Vũ, nên đã phong hầu cho nhiều họ tộc. Do đó, sau khi Tây Hán kiến lập, đã kết hợp cả hai phương thức phân phong (cắt đất phong hầu) và đặt quận huyện. Nhưng đối với các chư hầu khác họ thì Lưu Bang sinh lòng nghi kỵ, cùng với việc thanh trừ dần từng người, Lưu Bang cũng phong hầu lượng lớn cho gia tộc họ Lưu, nhằm củng cố thiên hạ nhà Hán.

Hán Vũ Đế
Tranh Hán Vũ Đế. (Miền công cộng)

Tuy chế độ phân phong có tác dụng bảo vệ quyền lực triều đình, nhưng thế lực các chư hầu vương càng ngày càng mạnh, tự nhiên cấu thành uy hiếp lớn đối với chính quyền trung ương. Có chư hầu vương thực lực rất mạnh, tiếm quyền coi mình như Thiên tử, có nơi trái pháp loạn kỷ cương, thậm chí công khai phản loạn. Các hoàng đế trước thời Hán Vũ Đế cũng chú ý vấn đề này, chủ trương làm suy yếu thế lực vương hầu, tăng cường quyền lực triều đình. Thời Hán Cảnh Đế, Triều Thác đề xuất: “Tước Phiên” (cắt bỏ phiên thuộc), cắt giảm đất chư hầu, gây ra mâu thuẫn, dẫn đến “Thất quốc chi loạn” (Loạn 7 nước). Tuy bình định được phản loạn, nhưng thế lực các chư hầu là không thể xem thường.

Sau khi Hán Vũ Đế lên ngôi, để thực hiện mục tiêu vĩ đại thống nhất thiên hạ, cần phải tăng cường tập trung quyền lực trung ương. Nhưng làm thế nào để tránh mâu thuẫn chư hầu, đồng thời làm suy yếu thế lực của họ, đây quả là một nan đề. Lúc này, Hán Vũ Đế tuyển bạt hiền tài không câu nệ xuất xứ, cứ có tài  là dùng, đã tuyển bạt được Chủ Phụ Yển, là người đưa ra chủ ý cho Hán Vũ Đế, đó là cho thi hành “Suy ân lệnh”.

Chủ Phụ Yển giải thích thế này: “Hiện nay con em của chư hầu vương có đến mười mấy vị, nhưng chỉ có con trưởng mới được kế thừa vương vị, còn con em khác không được phong đất, như vậy không tuyên dương được chữ Nhân chữ Hiếu. Hy vọng bệ hạ lệnh cho chư hầu vương “Suy ân”, mang đất đai chia cho con em họ, phong họ trở thành “Hầu”. Như vậy nhiều người được thụ ân của Hoàng Đế, tất cả đều vui, nhưng trên thực tế là chia nhỏ họ, thực lực các chư hầu vương sẽ dần dần suy yếu”.

Vậy nên, nội dung chủ yếu của “Suy ân lệnh” là: Chư hầu vương truyền ngôi cho con trưởng kế thừa, còn có thể dùng hình thức “Suy ân”, cũng là ban phát ân huệ, cho các con trai khác cũng được phân phong (Phân chia đất, phong chức tước) trong phạm vi quốc nội.

Sau khi chiếu lệnh được ban bố, Lương Vương Lưu Tương và Thành Dương Vương Lưu Diên dâng thư thỉnh cầu suy ân, Hán Vũ Đế hạ chiếu phê chuẩn. Các chư hầu vương khác cũng theo đó dâng thư, thỉnh cầu triều đình cho phép suy ân. Trong “Hán thư” có ghi rằng, năm Nguyên Sóc thứ 2 (năm 127 TCN), sau khi ban bố “Suy ân lệnh”, vương quốc Hà Gian trước sau phân thành 11 hầu quốc, vương quốc Tri Xuyên phân thành 6 hầu quốc, vương quốc Triệu phân thành 13 hầu quốc. Các chư hầu khác cũng chia năm xẻ bẩy. Đất đai chư hầu càng ngày càng nhỏ, nước lớn cũng chỉ có hơn chục thành, nước nhỏ còn hơn chục dặm, không chỉ giao nạp cống phẩm cho triều đình, mà còn dâng đồ cúng tế, khởi tác dụng trợ giúp chính quyền trung ương. Điều quan trọng nhất là lực lượng vương hầu không còn đủ mạnh để uy hiếp triều đình được nữa.

Chiểu theo chế độ suy ân, hầu quốc mới cũng thoát ly khỏi chế độ của vương quốc ban đầu, có lãnh địa độc lập, chịu sự quản hạt của quan lại quận huyện. Cũng nói, thi hành “Suy ân lệnh” đã làm cho các vương quốc độc lập trước đây, tự động mang quyền lực giao cho chính quyền triều đình. Kể từ đây, các vương, hầu địa phương chỉ còn được hưởng thụ đặc quyền vật chất và tô thuế trên lãnh địa của mình, nhưng không còn đặc quyền chính trị như trước đây.

Sau này, chư hầu vương có thế lực mạnh nhất, uy vọng cao nhất là Hoài Nam Vương Lưu An bị cáo buộc mưu phản, Hán Vũ Đế phái người tra xét, cuối cùng Lưu An tự sát. Sau đó cũng kéo theo Hoành Sơn Vương Lưu Tứ, Giang Đô Vương Lưu Kiến cũng tự sát. Hán Vũ Đế cũng phế trừ lãnh địa, đặt làm quận, đồng thời phái quan lại quản hạt.

Ngoài ra, để hạn chế chư hầu, Hán Vũ Đế còn ban bố Phụ ích pháp, A đảng pháp, tức là những kẻ cấu kết với chư hầu mưu đồ lợi ích, đều bị trừng phạt nghiêm khắc. Vậy nên quan viên, nhân sĩ đều tránh xa chư hầu, làm chư hầu không thể mở rộng. Uy hiếp của chư hầu với chính quyền trung ương dần bị tiêu trừ.

Hạn chế quyền thừa tướng, thiết lập nội triều

Kết cấu tổ chức triều đình của Hán Vũ Đế đã phát sinh một biến đổi trọng đại, đó là sắp đặt nội triều, hình thành lên cục diện nội triều, ngoại triều đều tồn tại. Nội triều, do các quan viên Thị trung, Thượng thư tổ thành cơ cấu quyết sách, phò tá bên cạnh Hoàng Đế, xử lý việc trong cung. Ngoại triều, do Thừa tướng lãnh đạo Tam công Cửu khanh tổ thành hệ thống quan viên văn võ. Việc tăng đặt nội triều là để ức chế quyền lực quá lớn của thừa tướng từ thời sơ Hán, tránh biến cố.

Hán Vũ Đế
Thừa tướng thời sơ Hán có quyền lực cực lớn. Tranh Tiêu Hà, từ bộ tranh “Tam tài đồ hội”. (Miền công cộng)

Các thừa tướng nhà Hán thời Huệ Đế, Văn Đế, Cảnh Đế, đa số là các vị khai quốc công thần, cùng Lưu Bang đánh trận đoạt thiên hạ. Các hoàng đế kế vị thuộc hàng con cháu hậu sinh, do vậy mà địa vị của thừa tướng rất cao. Ví dụ, hoàng đế gặp mặt thừa tướng ở bên ngoài, sau khi thừa tướng hành lễ, hoàng đế phải xuống xe đáp lễ, sau lại lên xe, lễ quan còn hô “Hoàng đế xuống xe vì thừa tướng”. Nếu trong cung thất, thừa tướng đứng lên, thì hoàng đế cũng phải đứng lên xong mới ngồi lại, lễ quan hô “Hoàng đế đứng lên vì thừa tướng”.

Thêm nữa, thừa tướng đứng đầu Tam công, sắp đặt bên dưới 12 bộ, có cơ cấu chuyên môn, phụ trách quản lý văn võ bách quan, có thể nói quyền lực cực lớn, hoàng đế cũng không tùy ý hỏi han chính sự. Ví như câu “Tiêu quy Tào tùy”, khi Tào Tham làm thừa tướng, cơ bản là không làm gì cả, có quan viên đến cầu kiến, ông cho uống rượu say, làm người đến không có cơ hội nói chuyện. Khi ấy Hán Huệ Đế bèn cho con trai ông ta đến hỏi, rằng sao lại hàng ngày uống rượu, cũng không hỏi Hoàng đế về công việc, không lo lắng thiên hạ an nguy sao? Còn đặc biệt dặn dò rằng đừng nói là Hoàng đế bảo đến hỏi. Kết quả là anh ta bị đánh một trận. Huệ Đế đành phải ra mặt hỏi, Tào Tham trả lời: “Tiên đế và Tiêu Hà định thiên hạ, minh pháp lệnh, nay bệ hạ chỉ cần chắp tay, thần tử thì thủ chức là được rồi”. Huệ Đế nghe xong liền tán thưởng. Điều đó cho thấy hoàng đế nhiều khi phải nghe theo lý niệm chấp chính của thừa tướng.

Khi Hán Vũ Đế lên ngôi, trước sau có hai vị họ ngoại làm thừa tướng là Đậu Anh và Điền Phần. Đặc biệt là Điền Phần rất ngạo mạn, báo cáo sự vụ thì thao thao bất tuyệt, tùy tiện tiến cử quan viên, đề xuất kiến nghị muốn Hoàng đế nghe theo, còn yêu cầu cho xây tư gia trong quan phủ. Thấy tình hình như vậy, Hán Vũ Đế bắt đầu có ý cắt giảm quyền lực, xóa bỏ “Trừ lại quyền” (quyền bãi chức quan lại) của thừa tướng, đồng thời cải biến truyền thống liệt hầu bái tướng. Năm Nguyên Sóc thứ 5 (năm 124 TCN), Hán Vũ Đế bổ nhiệm một lão nho sinh xuất thân bình dân là Công Tôn Hoằng làm thừa tướng, sau này phong làm Bình Tân Hầu, thay đổi cục diện quyền lực của triều đình.

Đồng thời để thực hiện hùng tài đại lược của mình, Hán Vũ Đế thiết lập nội triều đặc thù, gom chọn đội ngũ nhân tài, để phò tá thực thi chí hướng thống nhất giang sơn. Cụ thể là: Khi hoàng đế và đại thần ngoại triều có ý kiến trái chiều, thì quan viên nội triều sẽ xuất hiện để bàn luận với ngoại triều, từ đó mà thúc đẩy lý niệm chấp chính của hoàng đế. Ví dụ, năm Nguyên Sóc thứ 2 (năm 127 TCN), Vệ Thanh thu phục đất Hà Nam, quan nội triều Chủ Phụ Yển đề nghị tu sửa thành Sóc Phương, để thuận lợi vận chuyển vật tư, mở rộng quốc thổ, cho đây là cách tiêu diệt Hung Nô tận gốc. Hán Vũ Đế cho các công khanh đại thần thảo luận, Thừa tướng Công Tôn Hoằng phản đối. Thế là quan nội triều là Chu Mãi Thần cật vấn quần thần, cuối cùng bác bỏ số đông, thuận lợi thiết lập quận Sóc Phương.

Vậy kết cấu tổ chức nội triều như thế nào? Chủ yếu là từ Lang trung lệnh và Thiếu phủ tuyển bạt ra các quan viên: Đại phu, Trung đại phu, Trung lang, Thị trung, Thượng thư. Chức vụ Lang trung lệnh có vị làm nghị chính, có vị quản lý xe, ngựa, có vị chủ trì lễ nghi. Chức Thiếu phủ chủ yếu phụ trách hậu cần của Hoàng Đế. Quan viên nội triều ở bên cạnh hoàng đế đều trở thành thân tín, hoặc thành quan viên xử lý sự vụ hành chính thường ngày. Tiêu biểu là các vị: Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần, Tư Mã tương Như, Chủ Phụ Yển, Đông Phương Sóc, Mai Hao, đều từng làm chức Lang trung, Trung đại phu. Còn như Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, trước khi trở thành đại tướng quân thì cũng nhậm chức ở nội triều. Họ đều được Thiên tử coi như khách quý, cùng bàn bạc quốc sự.

Các sự vụ chính quyền do quan thượng thư phụ trách. Hán Vũ Đế cho thành lập Thượng thư đài, khuếch đại quyền lực của Thượng thư, tuyển dụng Nho sinh nhậm chức, xử lý quốc gia đại sự, thay thế một phần quyền thừa tướng, đồng thời trực tiếp báo lên Hoàng đế. Từ thời Hán Vũ Đế trở đi, quyền lực nội triều tiếp tục lớn mạnh, dần dần thay thế quyền lực ngoại triều.

Chế độ giám sát

Hán Vũ Đế còn có một cải cách lớn đối với chế độ chính trị, đó là tăng cường và hoàn thiện thể chế giám sát. Cụ thể là: Thứ nhất, thêm chức quan giám sát trong triều Tư trực và Tư lệ Hiệu úy, tăng cường giám sát văn võ bá quan cùng trị an kinh thành; thứ hai, đặt Thứ sử bộ cho 13 châu, để gia tăng giám sát các địa phương chư hầu. Dưới đây chúng ta cùng xem chi tiết.

Hán Vũ Đế
Hán Vũ Đế hoàn thiện chế độ giám sát, tăng cường quản lý quan lại và địa phương. Tranh “Thanh minh thượng hà đồ” của Cừu Anh đời Minh. (Miền công cộng)

Những năm đầu thời Sơ Hán, công tác giám sát chủ yếu do thừa tướng và ngự sử đại phu phụ trách. Thừa tướng quyền lực rất lớn, kiêm cả giám sát bá quan, ngự sử đại phu là chức quan kế thừa từ thời Tần, chủ yếu là trợ giúp cho thừa tướng. Nhưng các đế vương xưa thực hành vô vi nhi trị, do vậy chưa có chế độ giám sát hoàn thiện với địa phương, thông thường do thừa tướng nắm quyền sai phái quan viên lâm thời đi giám sát các quận quốc.

Năm Nguyên Thú thứ 5 (năm 118 TCN), Hán Vũ Đế đặt một chức quan “Tư trực” bên dưới thừa tướng, phụ tá kiểm tra, phát hiện những người có hành vi trái pháp luật. Những năm cuối Hán Vũ Đế, khi xem xét vụ án Vu cổ (vụ án liên quan tới dùng tà thuật hại người), vào năm Trưng Hòa thứ 4 (năm 89 TCN), Hán Vũ Đế đã đặt ra chức Tư lệ hiệu úy, có thể cầm Phù tiết vua ban để điều binh giám sát vương công quý tộc. Sau án Vu cổ, ông bỏ quyền điều binh của tư lệ hiệu úy, cải thành giám sát trị an kinh thành, quyền lực không lớn, trực thuộc hoàng đế, trực tiếp nhận mệnh lệnh từ hoàng đế, nên thân phận đặc thù này có quyền giám sát tương đối độc lập.

Một sáng kiến khác của Hán Vũ Đế, đó là đặt 13 Thứ sử bộ, để tăng cường giám sát và kiểm soát của trung ương với địa phương. Năm Nguyên Phong thứ 5 (năm 106 TCN), Hán Vũ Đế chia toàn quốc ra làm 13 khu giám sát, mỗi khu gọi là một bộ, mỗi bộ phái ra một Thứ sử. 7 quận quanh kinh thành quy về một khu, vẫn do tư lệ hiệu úy phụ trách, 12 châu bộ còn lại do Thứ sử phụ trách.

Thứ sử giám sát địa phương trên 6 phương diện, tức “Dĩ lục điều vấn sự” (lấy 6 điều để hỏi sự việc): Một là, cường hào chiếm đất quá số lượng hạn chế, cậy mạnh hiếp yếu; Hai là, quận thú không tuân thủ chiếu thư, pháp lệnh, đàn áp bách tính, hoành hành địa phương, tham ô hủ bại; Ba là, quận thú thẩm phán xử án không thương xót bách tính, coi người như cỏ rác, tùy ý thưởng phạt, bị bách tính căm ghét; Bốn là, tuyển bạt quan lại không công bằng, bài xích người hiền năng, bổ nhiệm tiểu nhân làm quan; Năm là, con em quận thú cậy thế nạt người, quận thú cho con em quan hệ giao hảo với thuộc hạ, làm thuộc hạ bẻ cong pháp luật; Sáu là, quận thú không trung thành với hoàng đế, cấu kết với cường hào địa phương, giao dịch quyền tiền, tổn hại lợi ích quốc gia.

Tác dụng của chức quan Thứ sử chủ yếu là đề phòng, ngăn chặn việc cấu kết của quận thú và cường hào địa phương đối kháng trung ương, căn nguyên việc phạm thượng làm loạn của vương tộc. Đồng thời, Thứ sử còn phụ trách việc tiến cử những quan lại có tài cho triều đình trung ương, còn có quyền bãi miễn những quan lại không làm tròn chức trách.

Địa vị của Thứ sử khi ấy khá cao, tương đương Khâm sai đại thần, nhiệm kỳ lâu dài nhiều năm, còn có nhà công vụ riêng ở địa phương. Bản thân danh từ “Thứ sử” cũng nói lên ý nghĩa của nó, “Thứ” là hành động do thám, cũng là tìm kiếm kẻ có tội, “ Sử” là chỉ sứ giả được hoàng đế sai phái. Chính sách giám sát của Hán Vũ Đế đã làm tăng lực độ quản chế  của Hoàng đế đối với bách quan, cũng là để hậu thế noi theo.

Ức chế cường hào

Cường hào hoành hành, chư hầu lớn mạnh và Hung Nô xâm phạm, là ba vấn đề lớn trở ngại cho việc thống nhất thiên hạ mà Hán Vũ Đế phải giải quyết. Ban đầu, kiến nghị đầu tiên của Đổng Trọng Thư cho Hán Vũ Đế là ức chế thế lực cường hào.

Hán Vũ Đế

Hán Vũ Đế ở địa khu Mậu Lăng đặt ấp định huyện, đồng thời di dời hào cường, hào tộc vào cư trú. Ảnh Mậu Lăng Hán Vũ Đế (Acstar/Wikimedia/ CC BY SA 4.0)

Cường hào bao gồm đại địa chủ, đại thương nhân, cho đến các môn khách của họ, còn một loại như lưu manh xã hội đen thường gọi là hào môn, hào hữu. Thời Hán Văn Cảnh, do triều đình tuân thủ học thuyết Hoàng Lão vô vi trị quốc, dẫn đến “Luật pháp lỏng lẻo, dân giàu có, sai dịch thì kiêu ngạo, hoặc kết bè đảng với cường hào, lấy vũ lực thay lệ làng. Tông thất nhiều đất đai, từ công khanh đại phu trở xuống đều xa xỉ, nhà xe trang phục quá chức phận, quá giới hạn”. Nghĩa là, tập đoàn quyền thế này không có kiêng nể gì, tùy ý làm càn.

Nói cách khác, Hán Vũ Đế muốn tấn công bọn họ, là vì bọn họ dựa vào thực lực kinh tế hùng hậu, cấu kết với quan viên hủ bại, chiếm đất đai, đàn áp bách tính, cản trở việc thi hành chính sách trung ương. Vậy nên Hán Vũ Đế đã chọn một biện pháp, đó là di dời hào cường, hào tộc về địa khu Mậu Lăng.

Năm Kiến Nguyên thứ 2 (năm 139 TCN), Hán Vũ Đế cho tu sửa Mậu Lăng, đồng thời đặt ấp định huyện. Huyện Mậu Lăng đất rộng vật nhiều, nhưng dân chúng thưa thớt. Cho nên đến năm sau, Hán Vũ Đế hạ lệnh, những hào tộc có tài sản 20 vạn, ruộng, đất hai khoảnh, di dời đến huyện Mậu Lăng. Đến năm Nguyên Sóc thứ 2 (năm 127 TCN), Chủ Phụ Yển đề xuất kiến nghị: “Huyện Mậu Lăng vừa kiến lập, có thể cho hào kiệt trong thiên hạ tụ về một nhà, bọn làm loạn cũng đưa cả về đây. Như vậy vừa làm đầy dân cư, lại còn có thể tiêu trừ lũ gian hoạt, không cần dùng biện pháp tru sát mà lại tiêu trừ được họa loạn cường hào”. Hán Vũ Đế thu nạp kiến nghị này, di dời những hào cường có gia tài trên 3 trăm vạn đến địa khu Mậu Lăng.

Đối đãi với các hào cường tội lỗi chất chồng, Hán Vũ Đế không hề nương tay. Lấy một trường hợp, khi ấy có một môn khách tên Quách Giải bị di dời. Kỳ thực gia tài ông ta không nhiều tới tiêu chuẩn, nhưng bị quan lại địa phương yêu cầu di dời, lý do là ông ta có lực ảnh hưởng lớn, vượt xa các cường hào khác. Nhưng Quách Giải là ai? Sử sách ghi rằng, Quách Giải khi trẻ là kẻ âm hiểm lang độc, đã giết nhiều người, lại còn không tiếc sinh mệnh của mình đi báo thù cho bạn, sự việc thất bại, sau làm cướp, tự đúc tiền giả, đào trộm mộ phần, khi tuổi già, tuy trên bề mặt thể hiện là người hiền đạt, hay bố thí, nhưng bản chất chưa có cải biến.

Hiệp khí của Quách Giải được lòng nhiều người, nên nhiều người nhận thức ra hoặc không nhận thức ra ngấm ngầm ủng hộ ông ta, có người còn giúp hắn sát nhân giải hận. Ví dụ, cháu của Quách Giải đã giết một quan viên yêu cầu hắn di dời, gia đình quan viên cho người mang cáo trạng lên kinh đô, nhưng không hiểu sao bị sát hại. Hán Vũ Đế hạ lệnh tróc nã Quách Giải. Trên đường tháo chạy, Quách Giải lại được nhiều người giúp. Tại huyện đường, có một nho sinh đến tán chuyện với sứ giả tra án, một môn khách của Quách Giải lớn tiếng ca ngợi Quách Giải, nho sinh hỏi: “Quách Giải gian tà vi phạm công pháp, sao lại gọi là hiền được?” Môn khách nghe xong, liền sát hại nho sinh.

Chính vì Quách Giải tội lỗi chồng chất, môn khách của hắn cũng lạm dụng bạo lực, cuối cùng Quách Giải tự chuốc hậu quả, bị phán tội đại nghịch bất đạo: xử tử.

Ngoài ra, Hán Vũ Đế trọng dụng những quan lại chấp pháp nghiêm khắc để tấn công cường hào. Hán Vũ Đế trị lý quốc gia, vừa khoan dung, vừa mạnh mẽ nghiêm khắc, Vương đạo và Bá đạo đều dùng. Do thời đầu triều Hán pháp tắc lơi lỏng, dẫn đến hào cường hoành hành, khó ước thúc kẻ làm càn, cho nên Hán Vũ Đế mới chọn biện pháp cứng rắn. Trong lịch sử, danh từ “Khốc lại” (quan lại tàn khốc) xuất hiện nhiều trong thời Hán Vũ Đế, tiêu biểu là Trương Thang, Triệu Vũ. Có những vị quá ư hà khắc, nhưng về phương diện tấn công hào cường thì phát huy tác dụng lớn. Cuối cùng, dưới sự công kích nghiêm khắc của Hán Vũ Đế, thế lực hào cường yếu dần.

Rõ ràng, vô luận là “Suy ân lệnh” hay là sắp đặt Thứ sử, bao gồm thu quyền thừa tướng, ức chế hào cường, đều do Hán Vũ Đế sáng chế, mà những việc này đã đặt định nền móng vững chắc cho lý tưởng đại thống nhất thiên hạ về sau.

(Còn tiếp)

Thái Bình
Theo Epoch Times

Link bài dịch: NTD Tiếng Việt


Mời quý độc giả ghé thăm trang NTD Tiếng Việt để cập nhật thêm nhiều bài viết hữu ích hơn.

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x