Chương 2: Thi Tiên chuyên bút phong lôi động, Kiếm hiệp thanh mang nghĩa khí phi. (Ông Tiên thơ vung bút gió thổi sấm động, Hiệp khách vung kiếm nghĩa khí bay).
Triều nhà Đường (618—907) Là một thời đại được thế giới công nhận là thời đại cường thịnh nhất của Trung Quốc. Một triều thiên tử một triều thần, khai sáng các nước xung quanh, có hàng vạn phiên thuộc lân bang triều bái; nội lực quốc gia ngày càng cường thịnh, hàng ngàn vạn hiện tượng được đổi mới, trên các phương diện như văn hóa, kinh tế, quốc sự, ngoại giao v.v… cùng các phương diện đều đạt được thành tựu huy hoàng.
Đối với các chủng tư tưởng văn hóa ngoại lai thì chắt lọc gom góp tất cả trên tinh thần và thái độ hải nạp bách xuyên (biển dung nạp trăm sông), đối với các lĩnh vực như sinh hoạt xã hội, văn hóa v.v.. đều tạo thành ảnh hưởng to lớn, bao quát phục sức, vui chơi giải trí, văn học, thơ ca, hội họa, ẩm thực, âm nhạc cùng vũ đạo v.v…
Thành tựu văn học khiến người người thán phục của triều Đường chính là Đương Thi (thơ Đường). Khởi đầu từ Trần Tử Ngang cùng “Sơ Đường tứ kiệt” (Lô Chiếu Lân, Lạc Tân Vương, Vương Bột, Dương Quýnh), các thi nhân của triều Đường xuất hiện tầng tầng lớp lớp, thời kỳ thịnh Đường còn có thêm Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, Sầm Tham, Vương Duy, thời kỳ trung Đường còn xuất hiện Lý Hạ, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, thời kỳ vãn Đường còn có Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục v.v…, như mặt trăng chói sáng giữa bầu trời đầy sao, càng làm nổi bật lên thi tiên Lý Bạch dẫn dắt một phong cách thi ca, nâng tầm đỉnh cao thi ca Trung Quốc. Các triều đại sau như Tống, Nguyên, Minh, Thanh dù cũng có xuất hiện các thi nhân kiệt xuất, nhưng luật thơ cùng thơ cổ về tổng quan mà xét thì chỉ là mãi không thể sánh được với Đường Thi, thơ Đường trở thành ngọn núi cao chót vót không thể vượt qua về thơ cổ của Trung Quốc.
Đường triều lấy Đạo giáo làm quốc giáo, cũng lấy Lão Tử cùng các kinh điển của Đạo giáo mở khoa thi để chiêu hiền đãi sĩ giai đoạn đầu của triều Đường, khi Thái Tông chấn hưng Nho học, lại đồng thời hưng thịnh Phật giáo. Cao tăng Huyền Trang vượt đường xa đi Tây Trúc thỉnh kinh, khi ấy triều Đường còn vì sự kiện này mà xây Đại Nhạn tháp để bảo tồn lưu giữ những Kinh Phật này. Các tông phái chủ yếu của Phật giáo đại đa số đều hình thành và phát triển vào thời kỳ này. Vì vậy các tác phẩm văn học mang chủ đề tu luyện, Phật, Đạo, Thần, Du thần tản tiên.
Thi Tiên chuyên bút phong lôi động (Ông Tiên thơ vung bút gió thổi sấm động)
Thơ ca thời Thịnh Đường khí thế hùng tráng to lớn, cảnh tượng hùng vĩ diễm lệ. Trong đó cuốn hút, lay động lòng người nhất chính là các sáng tác của Lý Bạch. Thơ Lý Bạch đã thể hiện đầy đủ nhất, tập trung nhất phong độ, diện mạo tinh thần thời Thịnh Đường: tràn trề nhiệt tình, hừng hực vươn lên, lạc quan tích cực, đặc sắc cá tính, bút pháp Thần truyền, tinh thần tu luyện. Tất cả những điều này đều được thể hiện trong những sáng tác của Lý Bạch. Thi nhân mà lớp lớp người đều thích thú bàn luận nhất không ai khác chính là Lý Bạch. Lý Bạch được ca ngợi là Thi Tiên “Ngàn năm độc bộ, duy có mình ông”. Cảnh giới văn học của ông cũng được ca ngợi là “vô tiền khoáng hậu”.
Thi ca Lý Bạch thất lạc rất nhiều nhưng ngày nay vẫn còn hơn 990 bài lưu lại. Đề tài của ông đa dạng, đủ các chủng loại từ thể thất ngôn cổ thi như Thục đạo nan, Mộng du thiên lão ngâm lưu biệt, Tương tiến tửu, Lương phủ ngâm v.v..,đến ngũ ngôn cổ thi ví dụ Cổ phong (59 bài). Rồi Thất ngôn tuyệt cú như Vọng lư sơn bạo bố, Vọng thiên môn sơn, Tảo phát bạch đế thành v.v… Mà dẫu là viết về đề tài nào, ông cũng đều có tuyệt bút. Tất cả đều trở thành những áng thơ lưu danh thiên cổ, nhà nhà đều có, và trở thành người đứng đầu của thi đàn Trung Hoa.
Phong cách ngôn ngữ thơ ca Lý Bạch, dùng câu thơ của chính ông nói ra là: “Nước trong hoa sen mọc, tự nhiên chẳng điểm tô”. Ông viết rất nhiều thơ Nhạc phủ (dòng thơ có thể phổ nhạc để hát), có lẽ chiếm một phần tư toàn bộ tác phẩm. Ông chính là người viết thơ Nhạc phủ nhiều nhất đời Đường. Lý Bạch giỏi nhất ở dòng thơ thất ngôn ca hành, mà nguồn gốc sâu xa là từ Nhạc phủ. Nhưng sử dụng thơ Tuyệt cú làm Nhạc phủ đời Đường thì Lý Bạch chính là vận dụng nhuần nhuyễn, trôi chảy nhất.
Ông có tài năng thiên bẩm nghệ thuật siêu thường khác lạ và sức mạnh cảm động lòng người to lớn. Những cảnh tượng kinh ngạc, khiến người ta hưng phấn, gợi mở ý tứ sâu xa, không gì không được thể hiện hết ra dưới ngòi bút Lý Bạch. Đỗ Phủ trong tác phẩm “Ký Lý thập nhị bạch nhị thập vận” đã ca ngợi ông là: “Bút lạc kinh phong vũ, thi thành khấp quỷ thần” (tạm dịch: Hạ bút kinh mưa gió, thơ xong khóc quỷ thần).
Cả đời ông chẳng coi công danh là chuyện vinh hiển, một thân áo vải mà coi thường quyền quý. Ông từng viết trong “Thiết tịch tà kỹ cổ xuy trĩ tử ban khúc từ” rằng: “Chợt trong bụi cỏ chết ngay thẳng, chẳng muốn lồng vàng sống cúi đầu” hay như trong “Mộng du thiên lão nhâm lưu biệt” rằng: “Chẳng thể khom lưng cụp mắt thờ quyền quý, làm ta chẳng thể được mở mày”.
Thơ Lý Bạch và nhân cách cao quý của ông có ảnh hưởng rất sâu sắc và lâu dài cho đời sau. Các nhà thơ nổi tiếng sau này như Hàn Dũ, Mạnh Giao, Lý Hạ đời Trung Đường, Tô Thức, Lục Du, Tân Khí Tật đời Tống, Cao Khải, Dương Thận, Cung Tự Trân đời Minh – Thanh… thảy đều chịu ảnh hưởng to lớn của nhân cách và thi ca Lý Bạch.
Lý Bạch hiểu cổ thông kim, đọc rộng biết nhiều, tam giáo cửu lưu tất cả đều trong lòng. Văn phong, thể thơ khác nhau đều được ông lấy ra vận dụng, nhặt lấy liền thành, không câu nệ hình thức, từ đó mà khai sáng ra một phong cách thơ, văn đặc biệt, để tiếng thơm muôn thuở đời sau.
Thi Tiên – Tửu Tiên cũng là Thánh say
Khi nói đến Thơ, người ta luôn đề cập ngay đến Thơ Đường, và nói đến ngâm thơ, người ta thường nói “uống rượu ngâm thơ”. Thực ra trong các thời đại lịch sử Trung Hoa, phong cách văn nhân uống rượu, làm thơ thịnh hành nhất là ở đời Đường. Lý Bạch là Thi Tiên, cũng là Tửu Tiên, trong cuộc đời hơn 60 năm rất ít khi rời xa rượu. Trong bài Tặng nội (Tặng vợ), ông từng nói về mình như sau: “Ba trăm sáu mươi ngày, ngày ngày say túy lúy”. Khi say rượu, Lý Bạch thực sự đã viết rất nhiều thơ, mà đều là thơ hay. Những bài như: Tương tiến tửu (Mời rượu), Sơn trung dữ u nhân đối chước (Đối ẩm với người ẩn cư trong núi), Nguyệt hạ độc chước (Uống rượu một mình dưới trăng)… đều là làm ra trong khi chếnh choáng men say, được người đời sau truyền tụng rộng rãi. Ông cũng dùng thơ miêu tả uống rượu mang đến chi lạc thú: “Thả lạc sinh tiền nhất bôi tửu, Hà tu thân hậu thiên tải danh?” (Cứ vui ly rượu trước mắt lúc đang sống, Cần gì lo đến thanh danh ngàn năm sau); “Tam bôi thông đại đạo, nhất đấu hợp tự nhiên. Đản đắc túy trung thú, vật vi tỉnh giả truyền.” (Uống ba chén thì thông hiểu đạo lý, uống một đấu thì hợp với tự nhiên. Chỉ mong có được cái thú trong lúc say, chứ không muốn để lại tiếng tăm là người tỉnh).
Lý Bạch là Thi Tiên bởi ông tìm Tiên cầu đạo và đã tu luyện lên đến cảnh giới rất cao. Trong khi tu luyện, nhìn thấy tiên cảnh, gặp tiên nhân, ông đều miêu tả rõ ràng trong thơ phú của mình. Đời sau, rất nhiều người không tu luyện, không tin Thần lại cho đó là lời nói ra trong khi say xỉn của ông, hoàn toàn không thể lý giải. Nhưng cũng có rất nhiều người cùng thời biết Lý Bạch vốn không phải người thường, bèn gọi ông là Thi Tiên, Trích Tiên như Tư Mã Thừa Trinh, Hạ Tri Chương…
Trong thời gian ở Trường An làm việc trong Hàn lâm viện, Lý Bạch giao du nhiều với các nhà thơ như: Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi, Lý Thích Chi, Lý Tấn, Trương Húc, Tô Tấn, Tiêu Toại… Họ cùng với Lý Bạch được gọi là Ẩm trung bát tiên (Tám ông tiên uống rượu). Đỗ Phủ sau này viết Ẩm trung bát tiên ca (Bài ca tám ông tiên uống rượu) chính là để tả Lý Bạch và những người bạn đó:
Phiên âm Hán Việt
Tri Chương kỵ mã tự thừa thuyền, nhãn hoa lạc tỉnh thuỷ để miên.
Nhữ Dương tam đấu thuỷ triều thiên, Đạo phùng khúc xa khẩu lưu diên, hận bất di phong hướng Tửu Tuyền.
Tả tướng nhật hứng phí vạn tiền, ẩm như trường kình hấp bách xuyên, hàm bôi lạc thánh xưng tị hiền.
Tông Chi tiêu sái mỹ thiếu niên, cử trường bạch nhãn vọng thanh thiên, hiệu như ngọc thụ lâm phong tiền.
Tô Phổ trường trai tú Phật tiền, tuý trung vãng vãng ái đào thiền.
Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên, Trường An thị thượng tửu gia miên, Thiên tử hô lai bất thướng thuyền, tự xưng thần thị tửu trung tiên.
Trương Húc tam bôi thảo thánh truyền, thoát mạo lộ đỉnh vương công tiền, huy hào lạc chỉ như vân yên.
Tiêu Toại ngũ đẩu phương trác nhiên, cao đàm hùng biện kinh tứ diên.
Dịch nghĩa
Tri Chương cưỡi ngựa mà giống như lên thuyền, mải coi hoa nên sa chân xuống giếng nước, ông ngủ luôn dưới đáy giếng.
Nhữ Dương phải uống ba chén trước khi vào cung chầu Vua, trên đường trông thấy xe chở men rượu mà nước miếng chảy rào rào, giận rằng mình không được bổ nhiệm nơi Suối Rượu.
Tả tướng trong ngày hứng lên tiêu tiền rượu đến vạn đồng, uống như con cá kình lớn hút luôn tới cả trăm con sông, nâng chén tự xưng là thánh yêu đời, người hiền đi ở ẩn.
Thôi Tông Chi thời nhỏ rất thanh tao, đẹp trai, nâng ly lên là trên đời không thấy ai là tri kỷ, chỉ thấy trời cao xanh, trắng đẹp như cây ngọc trước làn gió.
Tô Phổ, người trai giới thờ Phật, khi say thì quên luôn cả việc ngồi tham thiền.
Lý Bạch chỉ cần một ly thôi là hàng trăm bài thơ ra, nơi phố chợ Trường An, tại quán rượu say ngủ khì, nhà vua cho thuyền tới đón mà không chịu lên, còn nói rằng mình là vị tiên say rượu.
Trương Húc uống ba chén rượu là người đời tôn là vị thánh viết chữ, tụt khăn, để đầu trần trước mặt các quan lớn, vung bút trên giấy như mây khói vờn.
Tiêu Toại vừa mới làm độ năm ly, là nói thao thao khiến bốn bên trên bàn tiệc phải kính nể.
Cũng từ đó, Lý Bạch có danh xưng là “Tửu Tiên”. Lý Bạch cả đời thường uống rượu, ngâm thơ với bạn thơ, bạn đạo, lúc say, lúc tỉnh. Nhưng các bài thơ nổi tiếng nhất của ông lại thường ra đời sau khi Lý Bạch uống rượu, vung bút mà thành. Nhờ say rượu, Lý Bạch càng có thể tùy ý phát huy, không bị hạn chế bởi lẽ thường, mà viết ra càng nhiều ý tứ siêu việt, chuyên chở những yếu tố Thần truyền, cảnh thực nơi tiên giới. Bởi vậy mà người đương thời cũng gọi Lý Bạch là “Túy Thánh” (Thánh Say). Họ nói về ông như sau: “Lý Bạch say rượu, không câu nệ tiểu tiết, nhưng văn chương ông viết lúc say khướt, chưa bao giờ bị sai, mắc lỗi, và khi đàm đạo nghị sự với những người không say, đều không ngoài sở kiến của Thái Bạch, người đương thời gọi ông là Túy Thánh”.
Hãy cùng thưởng thức một bài thơ được Lý Bạch làm ra, có lẽ, trong một thời khắc say nhất cuộc đời mình vậy:
Phiên âm Hán Việt:
Tương tiến tửu
Quân bất kiến, Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Quân bất kiến, Cao đường minh kính bi bạch phát, Triêu như thanh ty, mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng, Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc, Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Sầm phu tử, Đan Khâu sinh, Tương tiến tửu, bôi mạc đình!
Dữ quân ca nhất khúc, thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:
Chung cổ soạn ngọc hà túc quý, Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh.
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần vương tích thời yến Bình Lạc, đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước.
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền, kính tu cô thủ đối quân chước.
Ngũ hoa mã, Thiên kim cừu,
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu, dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.
Dịch nghĩa:
Mời rượu
Anh không thấy, nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống, chảy ra đến biển không quay trở lại nữa.
Anh không thấy, cha mẹ soi gương buồn nhìn tóc bạc, sáng còn như tơ đen mượt, chiều tối đã trắng như tuyết.
Đời người khi nào đắc ý nên tận tình vui sướng, đừng để chén rượu vàng cạn queo nhìn vầng trăng.
Trời sinh ra ta có tài thì ắt sẽ được dùng, ngàn vàng tiêu sạch hết rồi sẽ có trở lại.
Mổ dê giết trâu cứ vui cái đã, uống một lần ba trăm ly rồi hãy tính.
Này ông bạn họ Sầm, này ông bạn Đan Khâu.
Xin mời uống rượu, chớ có ngừng chén.
Tôi xin ca một khúc cho các anh, xin các anh vì tôi lắng tai nghe:
Chuông trống cỗ bàn nào có đáng quý, chỉ xin được say hoài không muốn tỉnh.
Xưa nay các bậc thánh hiền đều không còn tiếng tăm, chỉ có kẻ uống rượu mới để lại tên tuổi.
Trần vương hồi xưa mở yến hội ở Bình Lạc, mười ngàn đấu rượu tha hồ mà hoan lạc vui cười.
Tại sao chủ nhân lại nói ít tiền, hãy mau mau mua rượu mời các anh uống.
Này ngựa hoa năm sắc, này áo cừu giá ngàn vàng.
Kêu đứa nhỏ ra đem đổi lấy rượu, cùng bạn tiêu mối sầu vạn cổ.
Bài Tương tiến tửu cũng có một tên khác là Tích tôn không (Tiếc chén không), trong Nhạc phủ thi tập quyển thứ 16 dẫn Cổ kim nhạc lục Lý Bạch viết: Hán cổ xuy não ca thập bát khúc, cửu viết Tương Tiến Tửu. Nội dung phần lớn là tả chuyện bằng hữu yến tiệc hát ca, ngâm thơ, uống rượu cùng bằng hữu.
Liên quan đến thời điểm sáng tác bài thơ này, thì có nhiều cách nói không đồng nhất. Cho ý kiến rằng đây là vào sau những năm Thiên Bảo khi Lý Bạch rời khỏi Kinh Đô, lúc ấy Lý Bạch du ngoạn bốn biển. Bài thơ này viết lúc ông tương ngộ với các bằng hữu là Sầm Huân, Nguyên Đan Khâu. Ba người họ ở Tung Sơn, thường cùng nhau leo núi, ngắm cảnh, ăn uống, ngâm thơ, tiêu dao tháng ngày.
Bài thơ này khí thế hùng vĩ, tình cảm phóng khoáng, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Lý Bạch. Trong Nhi Am thuyết Đường thi viết: “Bài ca này của Thái Bạch … là hào phóng nhất, tài khí thiên cổ vô song”.
Câu cuối cùng của bài: “Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu” (Cùng uống cho tan vạn cổ sầu) thực là một nét chấm phá đầy tinh tế. Đoạn trước là những lời thơ bay bổng, ý tứ triền miên, vút tận chín tầng không. Đến câu này thực như một nốt trầm, “vạn cổ sầu” nghe thật thâm trầm, lắng đọng biết bao! Xem hết toàn bài, thực sự là bay vút lên cao rồi lại vụt xuống thấp, không phải cây bút cự phách thì không thể viết nổi.
Tương tiến tửu không dài lắm, nhưng thực sự là thần bút. Bút no mực say, từ ngữ cực hào phóng mà lại trầm lắng. Bài thơ có khí thế và sức mạnh chấn động cổ kim. Người đời đánh giá rằng: “Đọc thơ Lý, trong cái hùng vĩ sảng khoái, thấy được cái thần sâu xa phóng khoáng an dật của ông, mới là diện mạo của Trích Tiên”. Bài Tương tiến tửu này chính là thể hiện đầy đủ phong cách của Lý Bạch như vậy.
Nói về thơ làm khi say rượu, còn có một bài khác rất nổi tiếng. Lý Bạch làm bài này khi đang một mình uống rượu dưới trăng, lòng đầy hoài niệm lại bất giác tìm gặp được tri kỷ. Hãy cùng thưởng thức:
Phiên âm Hán Việt:
Nguyệt hạ độc chước
Hoa gian nhất hồ tửu, độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt, đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm, ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh, hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi, ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan, tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du, tương kỳ mạc Vân Hán.
Dịch nghĩa:
Một mình uống rượu dưới trăng
Có rượu không có bạn, một mình chuốc dưới hoa.
Cất chén mời trăng sáng, mình với bóng là ba.
Trăng đã không biết uống, bóng chỉ quấn theo ta.
Tạm cùng trăng với bóng, chơi xuân cho kịp mà!
Ta hát, trăng bồi hồi, ta múa, bóng rối loạn.
Lúc tỉnh cùng nhau vui, say rồi đều phân tán.
Gắn bó cuộc vong tình, hẹn nhau tít Vân Hán.
Bài Nguyệt hạ độc chước này sáng tác vào năm Thiên Bảo thứ 3 (năm 744), lúc đó Lý Bạch 43 tuổi, làm trong Hàn lâm viện ở Trường An. Lý Bạch dường như có tình cảm đặc biệt với Mặt Trăng, Mặt Trời. Con gái của ông và phu nhân Hứa Thị tên là Bình Dương, có chữ “Dương” trong từ “Thái Dương” (nghĩa là Mặt Trời). Con trai ông cũng có tên lúc nhỏ là Minh Nguyệt Nô, trực tiếp dùng hai chữ Minh Nguyệt (nghĩa là “Trăng sáng”).
Lý Bạch viết ra cảnh tượng kỳ lạ độc đáo, lấy bóng trăng làm bạn, uống say mà ca hát. Nhà thơ lấy trăng sáng, thậm chí lấy cả bóng ảnh của mình mà làm bạn trò chuyện, cùng nhau uống rượu, hát ca, nhảy múa. Mặc dù trăng không biết uống, bóng chỉ theo thân, vẫn chẳng ngại lấy trăng trên cao và bóng hình làm tri kỷ.
Lúc tỉnh cùng nhau vui
Say rồi đều phân tán
Con người sống trên cõi đời, giữa người với người chẳng phải cũng thế này sao? Một đời gặp nhau là tương ngộ, chết rồi là biệt ly. Chỉ có nhìn rõ được bản chất quan hệ giữa người với người đến mức này, thì mới có nhận thức chân thực, bình lặng và siêu thoát đối với cuộc đời như Lý Bạch vậy.
Trăng là ý thơ thường thấy nhất trong thơ Lý Bạch. Ông trực tiếp hoặc gián tiếp viết về trăng trong khoảng 300 bài. Trăng từ xưa đến nay luôn là biểu tượng của sự thánh khiết, lý tưởng, tinh thần và tiên giới. Thi Tiên càng khéo dùng trăng gợi mở người đời mơ ước cao thượng, quét sạch ô uế thế tục, cuối cùng trở về với cõi tiên, “phản bổn quy chân” (quay về gốc gác của bản nguyên). Trăng dưới ngòi bút của ông đa dạng sắc thái: có “Minh nguyệt xuất thiên sơn. Thương mang vân hải gian” (Trăng nhô khỏi núi trời, mênh mang giữa biển mây), có “Túy khởi bộ khê nguyệt khê. Điểu hoàn nhân diệc hi” (Say bước trên trăng suối, chim vẳng chẳng bóng người), cũng có “Sơn minh nguyệt lộ bạch. Dạ tĩnh tùng phong yết” (Núi sáng sương trăng trắng, đêm tĩnh gió tùng lặng) và lại có “Thu sơn lục mộng trung. Kim tịch vị thùy minh” (Núi thu xanh giấc mộng, đêm nay sáng vì ai)… Lý Bạch mê trăng có thể nói thiên hạ không có người thứ hai.
Lại cũng có lúc ông đối ẩm, ngồi nói chuyện với trăng như hàn huyên với một người tri kỷ, như đánh thức nỗi sầu của người lữ khách đường xa vạn dặm, lưu lạc cõi hồng trần mà hướng về cảnh tiên.
Phiên âm Hán Việt:
Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì ? Ngã kim đình bôi nhất vấn chi.
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc, Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết, Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai, Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân, Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ, cộng khán minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì, Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.
Dịch nghĩa:
Đem rượu hỏi trăng
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi? Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng, trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son, khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới, nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân, Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa, trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như dòng nước chảy, cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu, ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.
Đời người ngắn ngủi, nhưng trăng sáng trường tồn, tự cổ chí kim, người, vật dễ mất, mà Thần Tiên như Thỏ Ngọc, Hằng Nga trên cung trăng vẫn còn y nguyên. Uống rượu ngâm thơ, thi nhân và minh nguyệt như đôi tri âm tri kỷ không thể rời nhau.
Tổ nghiên cứu nhân vật thiên cổ anh hùng của văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm.
Học Hải biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ
Link bài dịch: Epoch Times Tiếng Việt
Mời quý độc giả ghé thăm trang Epoch Times Tiếng Việt để cập nhật thêm nhiều bài viết hữu ích hơn.
- Xem thêm:
- Thiên cổ anh hùng Tưởng Giới Thạch (P.33): Hội nghị Trùng Khánh
- Thiên cổ anh hùng Tưởng Giới Thạch (P.32): Bảo toàn Nhật Bản
Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.
Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.
Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).
Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!
Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!