Nhân vật anh hùng thiên cổ trong văn hóa Thần truyền 5,000 năm huy hoàng – Binh Tiên chiến Thần Hàn Tín
7. Chiếm lĩnh nước Tề
Nước Tề đất rộng người đông, thực lực hùng hậu. Khi Sở-Hán giằng co, nước Tề bảo trì trung lập, tọa sơn quan hổ đấu. Sau khi nước Triệu bị công phá, vì để phòng Hàn Tín tấn công, nước Tề đã điều 20 vạn đại quân tới biên giới bày sẵn trận địa chờ Hàn Tín.
Dù Lưu Bang hiểm trá thâm độc, lại tước mất binh quyền của Hàn Tín, nhưng Hàn Tín đối với Hán vẫn một lòng trung thành như thuở đầu. Ông lập tức chiêu binh mãi mã, tổ chức lại một nhánh quân mới, chuẩn bị tiến đánh nước Tề. Hàn Tín trị quân là có phương pháp bài bản, tân binh được chiêu mộ chỉ sau một thời gian ngắn huấn luyện đã trở thành những tinh binh thiện chiến. Lưu Bang lại lo số lượng tân binh không đủ để đối kháng với quân Tề, nên điều Tào Tham và Quán Anh đến giúp đỡ, cũng là để tiện bề giám sát Hàn Tín.
Trước lúc Hàn Tín xuất binh đánh Tề, mưu sĩ của Lưu Bang là Lệ Thực Kỳ xin được sang Tề chiêu hàng. Ông đến nước Tề không e dè mà ngay trước mặt Tề vương Điền Quảng và tướng quốc nước Tề là Điền Hoành tuyên dương chiến tích ngày trước của Hàn Tín, nêu ra bài học kinh nghiệm của Ngụy Vương Báo, Triệu Vương Yết và Trần Dư, Hạ Thuyết và tiền lệ nước Yên đầu hàng, chỉ ra rằng chỉ quy hàng mới có thể giữ được giang sơn, còn không sẽ bị diệt vong.
Điền Hoành và Điền Quảng không phải là đồng minh của Hạng Vũ, nếu giao chiến với Hàn Tín cũng không nắm chắc phần thắng, liền bị Lệ Thực Kỳ thuyết phục mà quy hàng, còn tôn Lệ Thực Kỳ làm thượng khách, đồng thời cũng buông lỏng việc phòng thủ ở biên cương.
Hàn Tín dẫn quân tiến về phía đông, khi còn chưa từ đồng bằng vượt qua Hoàng Hà, liền nghe nói Lệ Thực Kỳ do Hán vương phái đi đã thuyết phục được nước Tề quy hàng. Tuy không rõ nội tình, ông vẫn lên kế hoạch thu binh trở về kinh thành. Nhưng mưu sĩ Khoái Triệt lại có suy nghĩ khác.
Khoái Triệt là người đất Phạm Dương, để tránh phạm tên húy của Hán Vũ Đế Lưu Triệt, nên sử sách thường dùng từ “Thông” thay cho từ “Triệt,” gọi ông là Khoái Thông. Ông là người thông minh nhạy bén, có tài hùng biện. Trong những năm cuối của nhà Tần (209 TCN), Trần Thắng tự lập mình làm Vương, phái đại tướng quân Vũ Thần dẫn quân tiến đánh nước Triệu. Khoái Triệt trợ giúp Vũ Thần, khuyên huyện lệnh Phạm Dương đầu hàng, do đó ảnh hưởng đến các quan ấp lệnh khác của nước Triệu, khiến Vũ Thần không hao phí một binh tốt nào đã chiếm được hơn 30 thành. Do đó Khoái Triệt được biết đến là một “thuyết sĩ.”
Khoái Triệt cảm thấy việc hành động bãi binh ngưng chiến của Hàn Tín lần này là không thỏa đáng. Ông nhắc nhở Hàn Tín: “Đại tướng quân ngài công đánh nước Tề là phụng theo mệnh lệnh của Hán Vương. Thế nhưng Hán Vương phái sứ giả tới khuyên giải nước Tề đầu hàng lại không hề thông báo để ngài dừng việc tiến quân. Nếu bây giờ dừng đánh Tề, há chẳng phải là trái lệnh Hán Vương hay sao? Hơn nữa, Lệ Thực Kỳ chỉ là một gã thư sinh, chỉ dựa vào ba tấc lưỡi mà thật sự có thể khuyên hàng được một nước Tề lớn mạnh như vậy sao? Nếu không có sức mạnh và uy dũng quân đội của ngài tiến sát biên giới trấn áp, thì đây sẽ là chuyện không thể.”
Hàn Tín cảm thấy lời của Khoái Triệt rất có lý. Nước Tề thực lực hùng mạnh, không dễ mà tận tâm tận lực phục tùng nhà Hán. Nếu một ngày kia thế cục thay đổi, khó tránh sinh lòng phản nghịch, tốt hơn nên giải quyết triệt để. Thế là nhân lúc quân Tề không phòng bị, Hàn Tín tấn tốc dẫn đại quân vượt sông Hoàng Hà, tiêu diệt quân chủ lực của Tề, dễ dàng chiếm lấy Lịch Hạ. Tiếp đó, Hàn Tín cấp tốc công chiếm các nơi khác, đích thân dẫn Hán quân chủ lực ngày đêm tiến về Lâm Truy, kinh đô nước Tề.
Theo “Sử ký Lệ sinh lục cổ liệt truyện”: “Tề vương Điền Quảng nghe tin quân Hán đến, tưởng rằng Lệ Sinh đang phản mình, bèn viết: “Chỉ cần ngươi ngăn được quân Hán, ta sẽ để người sống; bằng không, ta sẽ nấu chín ngươi! Lệ Sinh viết: “Người có thể làm đại sự không câu nệ tiểu tiết, người có đạo đức cao thượng cũng không mượn cớ không tiến.”
Điền Quảng, Điền Hoành hay tin, không nén được cơn giận, cho rằng Lệ Thực Kỳ nhận lệnh làm sứ đến nước Tề là nhằm mục đích khiến người Tề buông lơi phòng bị, để quân Hán thừa cơ tiến vào. Họ lệnh cho Lệ Thực Kỳ bảo Hàn Tín lui binh, nếu không sẽ bị cho vào vạc dầu. Lệ Thực Kỳ đã chọn cái chết.
Sau khi giết Lệ Thực Kỳ, Điền Quảng, Điền Hoành hoảng hốt dẫn quân thoát thân. Hàn Tín chia binh truy kích tàn quân, các lộ quân Tề liên tiếp bại trận, toàn bộ nước Tề rất nhanh đã nằm gọn trong tay Hàn Tín. Toàn bộ cuộc chiến diệt Tề chỉ diễn ra vỏn vẹn trong chưa đầy một tháng.
Có học giả đời sau cho rằng Hàn Tín là người gây ra cái chết của Lệ Thực Kỳ, rằng việc Hàn Tín đánh Tề là do ông đố kỵ với công lao của Lệ Thực Kỳ. Kỳ thực, quan điểm này là vô căn cứ. Có ba nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, Hàn Tín chí hướng cao xa, tấm lòng thản đãng, tuyệt đối không phải là kẻ tranh danh đoạt lợi. Ngay từ lúc bắt đầu dẫn binh ra trận đã lập được chiến công hiển hách, thế nhưng Lưu Bang chẳng những không trọng thưởng, trái lại còn ba lần bảy lượt chiếm đoạt thành quả thắng lợi từ tay Hàn Tín làm của riêng. Hàn Tín đối với chuyện này không một câu oán thán, vẫn một lòng tận tâm trung thành và suy nghĩ cho Lưu Bang, hoàn toàn không có chút oán trời trách người. Sau khi đánh bại nước Triệu, Hàn Tín không tranh công đòi thưởng cho mình, mà xin Lưu Bang phong Trương Nhĩ làm Triệu Vương, do đó, Hàn Tín muốn tranh công lao của Lệ Thực Kỳ để làm gì?
Thứ hai, từ bình định Tam Tần đến gửi thư chiêu hàng nước Yên, công lao của Hàn Tín đối với nhà Hán đã vượt trên tất cả chiến tướng và mưu sĩ dưới trướng Lưu Bang, ông hoàn toàn không cần thiết phải tranh cao thấp với một mưu sĩ.
Thứ ba, cái chết của Lệ Thực Kỳ hoàn toàn là âm mưu của Lưu Bang. Trên chiến trường Huỳnh Dương, Lưu Bang bị hãm trong tình thế xấu không tài nào thoát ra, con đường nhanh nhất là phải mau chóng đánh hạ nước Tề để phân tán sức công kích của quân Sở, từ đó giải cứu Huỳnh Dương. Vì để đảm bảo đánh bại được Tề, Lưu Bang bèn điều động binh sĩ chi viện cho Hàn Tín một cách bất thường. Tuy đã được chi viện, nhưng so với quân Tề, số lượng quân Hán vẫn còn thua xa. Bởi vậy khi Lệ Thực Kỳ tự mình xung phong đi chiêu an nước Tề, Lưu Bang liền gặp dịp mà lợi dụng. Việc Lưu Bang một mặt để Lệ Thực Kỳ đi khuyên hàng, nhưng mặt khác lại không thông báo cho Hàn Tín dừng tiến quân, đã là minh chứng quá rõ ràng. Đối với cái chết của Lệ Thực Kỳ, Lưu Bang vốn không chút ân hận tiếc nuối. Hồi đó, vì để có thể thoát thân, Lưu Bang đã từng mấy lần xô hai đứa con của mình xuống xe. Người mà ngay đến con mình cũng không màng thì làm sao có thể để tâm đến một mưu sĩ hèn mọn đây?
Bởi vậy Lệ Thực Kỳ chết là lỗi ở Lưu Bang.
Hơn nữa, điểm này cũng cho thấy một quỷ kế khác của Lưu Bang, nhằm khiến Hàn Tín dù thắng hay bại đều không thể có kết cục tốt. Nếu Hàn Tín ngưng đánh thì là làm trái ý chỉ của Lưu Bang, còn nếu Hàn Tín tiến đánh, thì vẫn là làm trái ý chỉ của Lưu Bang.
Lúc đó, Tề Vương ngoài miệng nói đồng ý quy thuận Lưu Bang, nhưng thực tế không hề có văn thư chính thức. Dựa theo biểu hiện bên ngoài, có thể thấy loại quy thuận này của nước Tề giống với kế hoãn binh hơn, thực chất vẫn là tọa sơn quan hổ đấu. Nếu không giải quyết tận gốc lực lượng quân sự của nước Tề, thì Hàn Tín không thể bình yên kéo quân xuống phía nam đánh Sở.
Cuộc chiến diệt Tề đã khiến chênh lệch lực lượng quân đội nghiêng về phía nhà Hán. Quân Hán đã hoàn thành việc bao vây Hạng Vũ trên quy mô lớn, là sự bảo đảm cho thắng lợi sau cùng.
Diệt Triệu, phạt Tề là những trận đánh kinh điển của Hàn Tín, từ trạng thái không binh đến lấy ít thắng nhiều, bắt toàn bộ quân địch, giết chủ soái, công chiếm hoàn toàn một nước chỉ mất mấy tháng.
8. Trận chiến Duy Thủy
Thời gian Hàn Tín công phá nước Tề cũng chính là lúc Hạng Vũ đông chinh Bành Việt lần thứ hai. Chỉ trong 15 ngày đã lấy lại 17 tòa thành trì, bình định đất Lương. Tề vương Điền Quảng bại trận tan tác, bất đắc dĩ đành cầu cứu Hạng Vũ. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng, Hạng Vũ quyết định để đại tướng Long Thư làm thống soái, dẫn theo 20 vạn binh mã đi cứu Tề.
Long Thư tấn tốc hành động, đến tháng 10 đã cùng Tề Vương Điền Quảng hợp lực ở Cao Mật. Tình thế khi đó đối với Hàn Tín có thể nói là vô cùng bất lợi. Phía tây nam có quân của Điền Hoành, đông nam có quân của Điền Quang, đông bắc có quân của Điền Ký, tạo thành thế giáp công. Long Thư là đệ nhất mãnh tướng của Hạng Vũ, đã từng liên thủ cùng Điền Vinh đại phá quân Tần ở Đông A, danh tướng Anh Bố cũng là bại tướng dưới tay ông. Đại quân liên minh Tề-Sở đã lên tới hơn 20 vạn, trong đó quân của Long Thư phần lớn là kỵ binh Lâu Phiền, vô cùng tinh nhuệ. Trong khi đó, Hàn Tín chỉ có trong tay không đến 10 vạn quân, đã vậy còn phải phân tán binh lực đi các nơi như Lịch Hạ, Lâm Truy, để đề phòng sự phản công của Điền Hoành, Điền Ký.
Khi hai quân còn chưa giao tranh, mưu sĩ dưới trướng Long Thư đã hiến kế, rằng quân Hán xa quê liều chết chiến đấu, tinh nhuệ khí thế khó bề cản nổi. Còn hai quân Tề, Sở thì lại tác chiến ngay trước cửa nhà, nên binh sĩ dễ bề tháo chạy. Bởi vậy chi bằng cho xây dựng lũy cao hào sâu để Tề Vương phái đại thần tâm phúc đi chiêu hàng những thành ấp đã mất. Tướng sĩ ở những thành ấp đó nếu biết được quân vương của mình vẫn còn sống, lại thêm quân Sở đến cứu viện, nhất định đều sẽ vùng lên chống lại quân Hán. Quân Hán đang tạm lưu lại đất Tề, cách xa bản quốc hai nghìn dặm, nếu như toàn bộ thành ấp nước Tề đều nhất tề phản công, quân Hán sẽ không có chỗ nào để lấy lương thảo, như vậy có thể không cần phải đánh mà lại khiến địch tự hàng.
Đây quả thực là thượng sách trong thượng sách để phá quân Hàn Tín, nhưng Long Thư lại không đồng ý. Ông nói: “Hàn Tín chẳng qua chỉ là kẻ sống nhờ đồ bố thí của bà lão giặt đồ, chui qua háng người khác, không đáng để phải sợ. Vả lại hiện giờ mang danh đi cứu viện nước Tề, nếu không đánh một trận mà chỉ chờ quân Hán chủ động đầu hàng, thì há chẳng phải ta không có công lao gì đáng kể ư! Nếu đánh bại Hàn Tín, một nửa nước Tề liền rơi vào tay ta.”
Điều Long Thư suy tính chính là, nếu như kiên thủ không đánh, lực lượng quân Tề sẽ nhanh chóng khôi phục. Tuy là có thể đánh bại Hàn Tín, nhưng người nắm giữ nước Tề vẫn là họ Điền, Long Thư và nước Sở sẽ không thu được lợi lộc gì. Nước Tề và nước Sở vốn có thù không đội trời chung, lần này cũng bởi tình thế ép buộc mới phải tạm gác ân oán sang một bên. Một khi qua cơn nguy khốn, quan hệ hợp tác giữa hai bên cũng sẽ lập tức tan thành mây khói, vậy thì Long Thư tiến quân lên phía bắc lần này chẳng qua chỉ là làm không công cho nước Tề. Bởi vậy Long Thư chỉ còn cách quyết đấu với Hàn Tín một phen.
Tháng 11 năm Hán Cao Tổ thứ 3 (năm 202 TCN; thời đó tháng 10 được tính là tháng Giêng), liên quân Tề-Sở bày binh bố trận ở bên kia sông Duy Thủy. Điền Quảng và Long Thư hợp quân ở bờ đông, còn Hàn Tín thì ở bờ tây. Ưu thế về binh lực và thiên hiểm của Duy Thủy khiến Long Thư tin rằng bản thân đã nắm chắc phần thắng trong tay.
Hàn Tín sai người ngày đêm gấp rút làm hơn 10 nghìn bao túi, sau đó cho đựng đầy đất cát rồi đem chặn ở thượng du sông Duy Thủy, khiến nước sông tích tụ lại tạo thành một đập chứa nước. Ông lệnh cho một nửa số quân mã mai phục ở bờ sông, còn bản thân dẫn theo một nửa binh sĩ vượt sông tập kích Long Thư.
Long Thư thấy vậy cười thầm: “Hàn Tín quả nhiên chỉ là hữu danh vô thực, ngay đến đạo lý rằng “tập kích quân địch khi họ vượt được nửa sông thì ắt thắng” mà cũng không biết, vậy để ta giáo huấn hắn một chút.” Thế là Long Thư bèn nhân lúc quân Hán mới vượt được nửa sông, hạ lệnh tấn công.
Hàn Tín giả thua tháo chạy trở về. Long Thư dương dương tự đắc, càng tin Hàn Tín là kẻ nhát gan, bèn tiên phong cưỡi ngựa xung trận, dẫn theo rất nhiều binh sĩ vượt sông truy kích. Ngay khi quân tiên phong của Long Thư vừa qua sông, quân chủ lực mới qua được nửa sông, Hàn Tín lập tức lệnh cho quân sĩ phá rách bao đựng cát để nước sông cuồn cuộn đổ xuống như dòng lũ, khiến binh sĩ của Long Thư ở giữa sông bị cuốn trôi hơn một nửa. Quân Tề, quân Sở trên bờ bị chia cắt ở hai bên sông, đầu cuối không thể tiếp ứng lẫn nhau. Quân Hán thừa cơ dũng mãnh phản công. Trong lúc hỗn chiến, Long Thư bị Tào Tham giết chết, toàn bộ liên quân Tề – Sở ở bờ tây đều bị quân Hàn Tín tiêu diệt. Bộ phận quân Sở còn mắc ở phía đông của dòng sông không chiến tự bại, bỏ chạy tán loạn.
Hàn Tín dẫn quân ráo riết truy đuổi tàn quân đến Thành Dương, bắt sống Điền Quảng, Điền Quang và Điền Chương, giành toàn thắng. Tào Tham đông tiến, dẹp yên quân của Điền Ký, còn Quán Anh dẫn quân về hướng tây truy kích Điền Hoành. Quân Điền Hoành tan tác chạy đến đất Lương, quy thuận Bành Việt. Quán Anh tiếp tục tiến quân đến Can Thừa công đánh tướng Điền Hấp. Hai tướng Tề là Điền Hấp, Điền Quảng đều tử trận nơi chiến trường. Cuối cùng, quân Hán đã bình định đất Tề, tổng cộng chiếm được hơn 70 thành trì.
9. Tự xin phong vương
Hàn Tín sau khi đại phá đạo quân của Long Thư, bình định nước Tề, bước tiếp theo chính là quyết chiến với Hạng Vũ. Nhưng trước đó, việc then chốt nhất chính là củng cố thành quả đã đạt được. Người Tề trước nay vốn không cam tâm bị người khác thống trị, lại thêm Điền Hoành còn chưa chết, càng khiến nước Tề thêm chông chênh. Số thành trì của nước Tề mà quân Hán chiếm lĩnh được còn nhiều hơn tổng số thành trì đã chiếm lĩnh trước đó. Cho nên việc trấn thủ nước Tề quả là một thách thức rất lớn.
So với nước Yên, thế cục nước Tề càng phức tạp hơn. Bên cạnh Hàn Tín cũng không có nhân tài quản lý đất nước tựa như Trương Nhĩ, mà chỉ có những người nhà võ như Quán Anh, Tào Tham. Không còn cách nào khác, Hàn Tín buộc lòng phải viết thư cho Lưu Bang tâu rằng: “Tề vốn nước nhiều biến loạn, nhiều điều gian trá bất trắc. Phía nam giáp nước Sở, nếu không lập giả vương thì không thể bình định được. Xin hãy lập tức cho thần được làm giả vương.” Như vậy Hàn Tín xin để bản thân được làm “giả Tề Vương,” ý tứ là Tề Vương tạm thời.
Trước nay Lưu Bang vốn kiêng dè Hàn Tín. Trước đó bởi phải dựa vào Hàn Tín đối chọi với Hạng Vũ, nên mới đành phải trao cho Hàn Tín phần nào binh quyền. Trong khi Hàn Tín bình định nước Tề ở phía đông, Lưu Bang ở Quảng Võ bị Hạng Vũ bắn trúng vào ngực. Sau đó lúc bao vây Chung Ly Muội, không những không có kết quả, mà Lưu Bang còn bị Hạng Vũ phản kích và bị dồn vào tình thế nguy hiểm, tiến thoái lưỡng nan, chỉ có thể trông ngóng Hàn Tín sau khi dẹp yên nước Tề đến cứu viện. Đọc thư của Hàn Tín, Lưu Bang đùng đùng nổi giận, lớn tiếng chửi bới ngay trước mặt sứ giả. Trương Lương đứng ở bên cạnh vội khẽ giẫm nhẹ vào chân của Lưu Bang, nhắc nhở ông ta về mối nguy thế cục, chi bằng hãy đối xử tử tế với Hàn Tín, để Hàn Tín trông coi nước Tề, bởi nếu chẳng may nước Tề phát sinh biến cố, hình thế sẽ càng bất lợi.
Lưu Bang vốn là người mưu sâu kế hiểm, nên tự biết cân nhắc nặng nhẹ, liền đổi giọng: “Nếu muốn làm thì hãy làm chân vương, cớ gì phải làm giả vương?” Sau đó bèn cử Trương Lương làm đặc sứ, mang theo ấn tín đến đất Tề, phong Hàn Tín làm Tề Vương. Lúc đi Trương Lương dẫn theo đại bộ phận binh lực của Hàn Tín đến Huỳnh Dương quyết chiến với Hạng Vũ.
Phần lớn người đời sau cho rằng hành động tự xin phong vương của Hàn Tín là khởi nguồn cho bi kịch của ông. Tuy nhiên, những người ôm giữ quan điểm này đã chỉ nhìn hiện tượng ở bề mặt, mà bỏ qua tính cách cơ bản nhất của Lưu Bang và Hàn Tín.
Trước hết, việc lập Tề Vương là tình thế bắt buộc. Lưu Bang không nhìn ra được điểm này hoặc không thể chấp nhận điểm này. Hàn Tín dâng tấu thư nói thẳng vấn đề, ấy là việc làm của bậc trung thần. Thế thì ai thích hợp làm người cai trị đất Tề đây? Hàn Tín ở đất Tề liên tiếp thắng trận, uy danh tựa như mặt trời chính ngọ, ngoài Hàn Tín ra, xác thực không còn ai có thể ổn định thế cục của nước Tề.
Thứ hai, Hàn Tín đã lập nên biết bao chiến công hiển hách cho Lưu Bang, dù có thật sự luận công thỉnh thưởng, phong ông làm Tề Vương, thì cũng không quá đáng chút nào.
Thứ ba, lòng đố kỵ chèn ép và loại trừ Hàn Tín của Lưu Bang vốn không phải từ khi Hàn Tín xin sắc phong cho mình là Tề vương mới xuất hiện, mà nó đã bắt đầu ngay từ khi rời khỏi Hán Trung. Lưu Bang đều là những lúc bản thân cùng đường bí lối mới tái dùng Hàn Tín, còn khi tình huống chỉ hơi có chút chuyển biến tốt lên, liền lập tức tước binh quyền hoặc kìm hãm sự phát triển của Hàn Tín. Tuy là Hàn Tín vẫn luôn lấy đức báo oán, một lòng trung thành và tận tâm với nhà Hán, cũng không sao cảm hóa được Lưu Bang.
10. Vũ Thiệp khuyên Hàn Tín xưng Vương
Mặc dù Lưu Bang ngay đến tước vương cũng không muốn phong cho Hàn Tín, nhưng công lao và năng lực của Hàn Tín thì trong mắt của người trong thiên hạ đã quá rõ ràng. Rất nhiều kẻ sĩ tri thức đều nhận ra Hàn Tín mới là người nắm giữ đại cục, có thể thống nhất thiên hạ. Nếu Hàn Tín đầu quân cho Lưu Bang, nhà Hán thắng, nếu ông đảo hướng nghiêng về Hạng Vũ, nước Sở thắng, còn ví như tự mình làm vương thì sẽ chia ba thiên hạ.
Hạng Vũ vốn tự tin bản thân mình là thiên hạ vô địch, xem thường mưu trí và binh pháp. Cái chết của Long Thư là một đòn nặng giáng vào ông ta. Sau khi suy đi tính lại, Hạng Vũ đã thỉnh mời người có tài ăn nói là Vũ Thiệp đến thuyết phục Hàn Tín.
Quê của Vũ Thiệp tiếp giáp với Hoài Âm, nên có thể xem là đồng hương với Hàn Tín, người này xưa nay dựa vào tài ăn nói, hùng biện mà vang danh thiên hạ. Khi đến gặp Hàn Tín, Vũ Thiệp phân tích rõ ràng về con người của Lưu Bang, chỉ ra lòng tham không đáy, hành động bội tín bội nghĩa, trở mặt vô tình và lấy oán báo ân của ông ta. Với loại người không giảng tín nghĩa, sáng nắng chiều mưa như vậy làm sao có thể nương tựa vào được? Vũ Thiệp cho rằng Lưu Bang hiện nay chưa trở mặt với Hàn Tín, chẳng qua là vì muốn nhờ Hàn Tín đối phó Hạng Vũ. Một khi diệt xong Hạng Vũ, người kế tiếp sẽ chính là Hàn Tín. Người thông minh như Hàn Tín lẽ nào nhất định muốn dốc sức phục vụ Hán Vương để rồi khiến bản thân lâm vào tình cảnh nguy hiểm hay sao?
Vũ Thiệp đưa ra những lập luận sâu sắc, lời lẽ sắc sảo để thuyết phục, nhưng Hàn Tín không chút động tâm và biểu đạt lòng trung thành với Lưu Bang “dù chết cũng không thay đổi.” Ông nhờ Vũ Thiệp gửi lời cảm ơn đến Hạng Vương. Thấy thái độ cương quyết của Hàn Tín, Vũ Thiệp đành phải hậm hực ra về.
Sau khi Vũ Thiệp rời đi, tâm phúc của Hàn Tín là Khoái Triệt cũng đến thảo luận với ông về chủ đề này. Hiểu rõ Hàn Tín trọng nghĩa khinh lợi, có ân ắt báo, nên Khoái Triệt đã mượn thuật xem tướng mặt mà đưa ra ý kiến với Hàn Tín. Ông nói bản thân từng được cao nhân chỉ dạy, am hiểu sâu sắc thuật xem tướng bí truyền, có thể từ vóc dáng, khuôn mặt mà suy đoán ra vận mệnh, trước nay đều linh nghiệm. Hàn Tín quả nhiên cảm thấy hứng thú, nhờ Khoái Triệt xem tướng cho mình.
Khoái Triệt bảo Hàn Tín lệnh cho lui tùy tùng, một lời hai ý nói rằng: “Xem tướng mặt của tướng quân thì nhiều nhất cũng chỉ được phong hầu, hơn nữa còn có nguy hiểm. Nhưng xem tướng lưng của ngài, thì phú quý vô lượng.” Chữ “lưng [bối] mà Khoái Triệt nói ở đây ngụ ý là quay lưng rời bỏ Hán Vương, còn từ “mặt” [diện] là đối lập với lưng, ý chỉ trung thành với Hán Vương.
Khoái Triệt tiếp tục: “Thời đầu khi thiên hạ đại loạn, các anh hùng hào kiệt đều giương cờ xưng vương, vạn người quy tụ hưởng ứng. Lúc bấy giờ, họ chỉ có một mục đích là lật đổ nhà Tần mà thôi. Hiện tại thế cục đang biến thành Sở-Hán tương tranh, khiến vô số người vô tội chết thảm, gan mật, xương cốt phơi đầy đồng hoang.
Hạng Vũ tuy có khởi đầu tốt, uy danh vang dội thiên hạ, thế nhưng hiện tại lại đang bị hãm ở khu vực Thành Phụ, ba năm không có đột phá gì. Hán Vương dẫn theo 10 vạn đại quân dựa vào địa hình thuận lợi ở vùng Lạc Dương, mỗi ngày đánh tới mấy trận nhưng chẳng được tấc đất nào, liên tiếp bại trận tháo lui, họ đều là những người không đủ mưu trí và dũng cảm.
Đến nay, nhuệ khí của cả hai bên đều đã hết, tài lực cạn kiệt, bách tính chán ghét cảnh chiến tranh dai dẳng, mong mỏi một cuộc sống yên ổn, nhưng không biết dựa vào ai. Trước tình thế này, nếu không có người thánh hiền và đại đức, thì khó có thể dập tắt được sự họa loạn của thiên hạ. Hiện tại vận mệnh của hai vị vương đều nằm trong tay ngài, ngài giúp Hán thì Hán thắng, ngài giúp Sở thì sở thắng. Tôi sẵn lòng giãi bày tâm can với ngài, xin dâng ngu kế của mình, chỉ sợ ngài không muốn dùng mà thôi. Theo kế sách của tôi thì tốt nhất là không giúp bên nào cả, ngài và họ chia ba thiên hạ, tạo thế chân vạc.
Với tài năng thánh hiền của ngài, lại thêm binh lực lớn mạnh và lãnh thổ rộng lớn của các nước Tề, Yên, Triệu Đại, sẽ có thể khống chế được hai nhà Lưu-Hạng. Chúng ta thuận theo ý dân thì người trong thiên hạ nhất định sẽ đến hưởng ứng chúng ta. Lấy đức, lấy lễ đối đãi với các chư hầu thì họ nhất định sẽ đến quy thuận, thiên hạ sẽ thuộc về Tề. Người ta thường nói: ‘Trời cho mà không lấy, thì ngược lại không chừng phải chịu tội; thời đến mà không hành động, thì sẽ nhận lấy tai ương,’ vậy nên mong ngài hãy suy xét cho thật kỹ.
Hàn Tín nói: “Hán Vương có ân huệ với tôi. Tôi nghe nói rằng ‘Đi xe người thì lo cho nỗi lo của người, mặc áo của người thì giúp gánh vác nỗi ưu tư của người, ăn cơm của người thì chết cho việc của người,’ tôi sao có thể vì tư lợi của bản thân mà bội tín bội nghĩa chứ?”
Khoái Triệt nói: Túc hạ tự cho là mình chỗ giao hảo với Hán Vương, muốn xây dựng nên cơ nghiệp muôn đời, tôi thiết nghĩ điều này có chỗ không đúng. Nói như Trương Nhĩ, Trần Dư, xưa kia vốn là đôi bạn tri kỷ đồng sinh cộng tử, thế nhưng chỉ vì chút hiểu lầm nho nhỏ mà đã xem nhau như kẻ thù không đội trời chung, chỉ muốn mau giết đối phương cho hả dạ. Ham muốn nhiều sẽ sinh họa loạn, hơn nữa lòng người khó lường! Tình nghĩa giữa tướng quân với Hán Vương không thể so sánh được với tình cảm của Trương Nhĩ và Trần Dư thuở ban đầu. Thế nhưng sự hiểu lầm giữa tướng quân với Hán Vương lại vượt xa mâu thuẫn của hai người kia, vì sao ngài tin rằng Hán Vương không hại ngài chứ?
Có câu nói rằng: ‘Thú hoang hết, thì chó săn cũng bị đem nấu; nước địch phá xong, thì mưu thần cũng chết.’ Xưa kia đại phu Văn Chủng có công phục hưng nước Việt, giúp Câu Tiễn lên ngôi bá vương, vậy mà bản thân lại rơi vào cảnh công thành thân vong. Hai ví dụ này còn chưa nói rõ vấn đề sao? Tôi nghe nói rằng những người dũng mãnh mưu trí khiến cho bậc quân chủ e sợ, thì bản thân họ rất dễ gặp nguy hiểm. Người có công lao cái thế thì lại không được ban thưởng.
Ngài vượt Tây Hà, bắt Ngụy vương làm tù binh, bắt sống Hạ Duyệt, dẫn binh xuống Tỉnh Hình, giết Thành An Quân, chiêu hàng Triệu, uy hiếp Yên, bình định Tề, bẻ gãy 20 vạn quân chi viện của Sở ở phía nam, giết Long Thư ở phía đông, trở về tây để báo tin thắng trận, đó chính là công lao cái thế vô song và mưu lược thiên hạ đệ nhất vô nhị. Nếu ngài theo Hạng Vũ, ông ấy cũng không dám tin tưởng ngài, nếu như theo Hán Vươngthời nhà Hán Vương nhất định sẽ có lo lắng trong lòng, vậy thì ngài còn có thể quy thuận ai đây? Ở địa vị bầy tôi mà công lao thiên hạ không ai có thể so bì, tôi thấy nguy thay cho ngài!”
Hàn Tín cắt lời Khoái Triệt và nói: “Tiên sinh không cần nói thêm nữa, để tôi suy nghĩ đã.”
Vài ngày trôi qua, không thấy Hàn Tin có động tĩnh, Khoái Triệt lại đi thuyết phục một lần nữa, nói rằng: “Biết lắng nghe ý kiến là điều kiện để thành sự, có thể đưa ra quyết định chính xác là nhân tố then chốt để thành công. Thời cơ dễ mất khó được. Xin ngài hãy suy xét thật kỹ.”
Hàn Tín vẫn luôn không muốn phản Hán. Khoái Triệt tự biết sự tình hệ trọng, nếu cuộc trò chuyện giữa họ bị tiết lộ ra bên ngoài, nhất định sẽ gặp họa diệt môn, bèn giả điên làm thầy cúng, sống tha hương.
Hàn Tín quyết không tự lập mình làm vương, kết cục cuối cùng quả thật đã ứng nghiệm với dự ngôn của Vũ Thiệp, rằng: “Hạng vương hôm nay vong, ngày mai ắt đến lượt túc hạ.” Người đời sau đối với điều này bình phẩm không ít. Rất nhiều người không thể lý giải được tấm lòng “thà để người thiên hạ phụ ta, ta quyết không phụ người thiên hạ” của Hàn Tín, và xem việc ông xem thường sinh tử, trọng lời hứa là hành động “ngu muội.” Cũng có người sau nói rằng tài hoa cái thế của Hàn Tín chỉ có thể dùng ở mặt quân sự, còn về mặt chính trị thì không phải là đối thủ của Lưu Bang. Kỳ thật, thắng lợi của Hàn Tín trên chiến trường vốn không phải chỉ dựa vào binh hùng tướng mạnh, thường là những lúc thân lâm vào cảnh đường cùng thế yếu, dùng mưu trí phi phàm giành được thắng lợi.
Loại trí mưu này không chỉ cần có khả năng quan sát cực kỳ tỉ mỉ tinh tế, sự phán đoán tình thế vô cùng chuẩn xác, mà còn cần phải là người quả cảm, khí phách siêu phàm, loại trí huệ này dùng vào đâu thì cũng không ai có thể so sánh được. Ông đã không làm theo kế của Khoái Triệt!
Đây chính là Hàn Tín của lịch sử!
Lưu Bang kia cũng đạt tới trình độ hiếm có trong lịch sử xưa nay, nhưng là về sự cay độc đa nghi mặt dày vô liêm sỉ, chứ không phải là có trí lực và gan dạ sáng suốt hơn người. Trên thực tế, tất cả những thành quả to lớn quan trọng trong chiến tranh Sở-Hán đều do một tay Hàn Tín làm nên, còn thành tựu lớn nhất của Lưu Bang chỉ là cướp công lao của người khác về tay mình mà thôi.
Xem tiếp: Phần 7: Hàn Tín – Tứ diện Sở ca
Do nhóm nghiên cứu về các nhân vật thiên cổ anh hùng của 5,000 năm văn hóa Thần truyền thực hiện
Minh Phúc biên dịch
Tham khảo bản gốc từ Epoch Times tiếng Hoa
Nguồn: Epoch Times Tiếng Việt
Mời quý độc giả ghé thăm trang Epoch Times Tiếng Việt để cập nhật thêm nhiều bài viết hữu ích hơn.
- Xem thêm:
- Thiên cổ anh hùng Tưởng Giới Thạch (P.33): Hội nghị Trùng Khánh
- Thiên cổ anh hùng Tưởng Giới Thạch (P.32): Bảo toàn Nhật Bản
Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.
Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.
Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).
Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!
Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!