Tam Tự Kinh: Đọc sách luận bút (28)

Tam Tự Kinh - tập 28: Tống Tề kế, Lương Trần thừa
Tam Tự Kinh – tập 28: Tống Tề kế, Lương Trần thừa

Bài 28

Nguyên văn

宋(1)齊(2)繼(3),梁(4)陳(5)承(6),
為南朝(7),都(8)金陵(9)。
北(10)元魏(11),分東西(12),
宇文周(13),與高齊(14)。

Bính âm

宋(sòng)           齊(qí)                 繼(jì),                 梁(liáng)            陳(chén)               承(chéng),
為(wéi)              南(nán)             朝(cháo),          都(dū)                金(jīn)                    陵(líng)。
北(běi)               元(yuán)           魏(wèi),             分(fēn)              東(dōng)               西(xī),
宇(yǔ)                文(wén)            周(zhōu),           與(yǔ)                高(gāo)                 齊(qí)。

Chú âm

宋(ㄙㄨㄥ\)           齊(ㄑㄧ/)               繼(ㄐㄧ\),
梁(ㄌㄧㄤ/)           陳(ㄔㄣ/)               承(ㄔㄥ/),
為(ㄨㄟ/)               南(ㄋㄢ/)               朝(ㄔㄠ/),
都(ㄉㄨ)                   金(ㄐㄧㄣ)               陵(ㄌㄧㄥ/)。
北(ㄅㄟˇ)                  元(ㄩㄢ/)               魏(ㄨㄟ\),
分(ㄈㄣ)                   東(ㄉㄨㄥ)               西(ㄒㄧ),
宇(ㄩˇ)                      文(ㄨㄣ/)               周(ㄓㄡ),
與(ㄩˇ)                      高(ㄍㄠ)                   齊(ㄑㄧ/)。

Âm Hán Việt

Tống Tề kế, Lương Trần thừa,
Vi Nam Triều, Đô Kim Lăng.
Bắc Nguyên Ngụy, Phân Đông Tây,
Vũ Văn Chu, Dữ Cao Tề.

Tạm dịch

Tống Tề kế tục, Lương Trần kế thừa,
Làm thành Nam Triều, đặt đô Kim Lăng.
Bắc triều Nguyên Ngụy, chia ra Đông Tây,
Tây Vũ Văn Chu, và đông Cao Tề.

Từ vựng

(1) Tống (宋): tên một triều đại của Nam triều thời kỳ Nam Bắc triều. Vị vua khai quốc là Lưu Dụ (Tống Vũ Đế), lúc nhỏ được gửi nuôi hộ, là hậu duệ của Sở Nguyên Vương Lưu Giao, em trai của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Có công với Đông Tấn, được Tống vương ban tước. Sau cưỡng bức vua Tấn nhường ngôi cho ông, đổi quốc hiệu là Tống. Lịch sử gọi là Tống Nam triều hoặc Lưu Tống (cùng Triệu Tống, triều Tống sau này là khác nhau). Công nguyên năm 479, Tống Thuận Đế Lưu Chuẩn bị Tiêu Đạo Thành bức bách, đem đế vị nhường cho Tiêu Đạo Thành, Tống Nam triều cuối cùng cũng bị Tề Nam triều thay thế. Lưu Tống tồn tại tổng cộng 59 năm.
(2) Tề (齊): tên một triều đại của Nam triều thời kỳ Nam Bắc triều. Tiêu Đạo Thành soán ngôi nhà Tống tự lập, quốc hiệu là Tề, tức Tề Cao Đế, Tề tồn tại được 24 năm.
(3) kế (繼): kế tục, liên tiếp.
(4) Lương (梁): tên một triều đại của Nam triều thời kỳ Nam Bắc triều. Đông Hôn hầu triều Tề bạo ngược vô đạo, thế là thứ sử Tiêu Diễn khởi binh diệt Tề, Tiêu Diễn lên ngôi làm Lương Vũ Đế. Sau bởi vì Hầu Cảnh làm phản, dựa vào đó Trần Bá Tiên khởi binh thảo phạt Hầu Cảnh, nhưng Lương cũng bị Trần Bá Tiên cướp ngôi, Lương vong, tổng cộng tồn tại được 56 năm.
(5) Trần (陳): tên một triều đại của Nam triều thời kỳ Nam Bắc triều, Trần Bá Tiên là vua khai quốc, bởi vì Hầu Cảnh làm loạn tàn phá đất nước hơn nữa tài nguyên thiếu thốn, sau cùng bị nhà Tùy tiêu diệt, tồn tại tổng cộng được 33 năm.
(6) thừa (承): kế tục, kế thừa.
(7) Nam Triều (南朝): gồm 4 triều Tống, Tề, Lương, Trần.
(8) đô (都): đều, thủ đô, kinh đô.
(9) Kim Lăng (金陵): địa danh, nay là Nam Kinh.
(10) bắc (北): bắt đầu từ Bắc Ngụy thống nhất phương bắc, đến Tùy Văn Đế diệt Bắc Chu mới thôi, trải qua Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu, lịch sử gọi là “Bắc triều” .
(11) Nguyên Ngụy (元魏): tức Bắc Ngụy, còn gọi là Hậu Ngụy, Thác Bạt Ngụy, Nguyên Ngụy. Thác Bạt Khuê là vị hoàng đế khai quốc Bắc Ngụy, sử gọi là Thái Tổ Đạo Vũ Đế. Bởi vì Ngụy Hiếu Văn Đế đổi sang họ Nguyên, cho nên còn gọi là Nguyên Ngụy.
(12) phân đông tây (分東西): Ngụy chia làm Đông Ngụy cùng Tây Ngụy. Về sau, thực quyền Bắc Ngụy do Đại tướng Cao Hoan cùng Vũ Văn Thái nắm giữ. Công nguyên năm 534, Bắc Ngụy Hiếu Võ Đế chạy trốn tới Trường An nương nhờ Vũ Văn Thái. Năm thứ hai, Vũ Văn Thái giết Hiếu Võ Đế, lập Văn Đế; Cao Hoan lập Ngụy Hiếu Tĩnh Đế, dời đô về Nghiệp Thành. Từ đây, Bắc Ngụy chia ra thành hai triều đình. Trong lịch sử đem việc đóng đô tại Trường An gọi Tây Ngụy, đóng đô tại Nghiệp Thành gọi là Đông Ngụy.
(13) Vũ Văn Chu (宇文周): là Bắc Chu của thời kỳ Nam Bắc triều. Tây Ngụy sau đó bị Vũ Văn Giác soán ngôi, thành lập Bắc Chu. Bởi vì họ hoàng thất là Vũ Văn, còn gọi là Vũ Văn Chu. Sau bị nhà Tùy tiêu diệt, tồn tại được 25 năm.
(14) Cao Tề (高齊): là Bắc Tề của thời kỳ Nam Bắc triều. Đông Nguỵ bị Văn Tuyên Đế Cao Dương thay thế, kiến lập ra Tề quốc. Sử gọi là Bắc Tề. Bởi vì hoàng thất họ Cao, còn gọi là Cao Tề. Sau bị Bắc Chu tiêu diệt, tồn tại được 28 năm.

Dịch nghĩa tham khảo

Triều Tấn truyền hơn 100 năm về sau tiến vào thời đại Nam Bắc triều. Trong đó Nam triều gồm 4 triều đại Tống, Tề, Lương, Trần. Bốn triều đại này lập kinh đô tại Kim Lăng.

Từ Nguyên Ngụy bắt đầu Bắc triều, cho đến thời Hiếu Võ Đế, Nguyên Ngụy phân ra thành Đông Nguỵ và Tây Ngụy. Sau đó, Vũ Văn Giác soán ngôi Tây Ngụy, kiến lập Bắc Chu, Cao Dương soán ngôi Đông Ngụy, kiến lập Bắc Tề.

Đọc sách luận bút

Lịch sử từ cuối thời Đông Hán Tam quốc đi tới triều Tấn, lại từ triều Tấn, tiến vào thời kỳ Nam Bắc triều, từ năm 420 Lưu Dụ cướp ngôi Đông Tấn bắt đầu kiến lập Tống Nam triều, đến năm 589 triều Tùy diệt Trần của Nam triều mới thôi, bên trên từ Đông Tấn, Ngũ Hồ thập lục quốc (thời 5 dân tộc họ Hồ làm loạn Trung Hoa, bao gồm 16 nước từ năm 304 đến năm 439), tiếp xuống đến triều Tùy. Bởi vì 2 thế lực Nam Bắc đối lập nhau thời gian dài, cho nên gọi là Nam Bắc triều.

Chúng ta nói, lịch sử từ những năm cuối nhà Hán bắt đầu Tam Quốc phân quyền suốt 220 năm, thẳng đến thời Nam Bắc triều, dài đến 360 năm. Nếu như bao gồm cả những năm bạo loạn cuối thời nhà Hán, cơ hồ tương đương với 400 năm, cùng ngang bằng số năm với lịch sử thống nhất của triều đại chính thống nhà Hán và nhà Đường. Đây là thời đại chính quyền chia rẽ lâu dài hoặc là luân phiên thống trị.

Sự hỗn loạn và chia rẽ lâu dài này mang ý nghĩa gì? Nếu Trung Nguyên từ xưa đã được gọi là Thần Châu, Gia Cát Lượng thời Tam Quốc đã viết dự ngôn “Mã Tiền Khóa”, đã tiên đoán sự sụp đổ của chính quyền Thục Hán và sự hưng vong các triều đại. Có thể thấy rằng lịch sử hướng theo sự an bài của Thiên ý. Mục đích là qua các triều đại mà lưu lại văn hóa và hành vi tư tưởng làm người tương ứng, cho nên tất nhiên văn hóa là do Thần truyền.

Lịch sử diễn ra Tam Quốc là nói đến bài học nội hàm văn hóa của chữ “Nghĩa”. Đương nhiên đạo đức khí phách của Lưu Bị là vị vua cổ đại nhân đức trọng hiền đãi sĩ vẫn không ngừng đứt đoạn. Giống như một cái tổng kết của văn hóa Nho gia. Sau đó sẽ bắt đầu đặt định văn hóa Phật gia.

Nhìn lại những năm cuối của nhà Chu thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng trải qua mấy trăm năm chia rẽ và hỗn loạn, lại vì tựu chung văn hóa thời thượng cổ lấy Nho gia và Đạo gia làm đầu, vị trí chính thống của tư tưởng Bách gia chư tử và kiến lập Nho gia tại nhân thế để chỉ đạo tư tưởng làm người, Đạo gia là vì để tu hành và phụng Thiên ý lúc ẩn lúc hiện mà trợ giúp sức lực trí tuệ để thay đổi các triều đại. Bởi vậy khi lịch sử đi vào thời đại chia rẽ lâu dài 400 năm, tất nhiên có ý nghĩa của nó.

Từ thời Tam quốc, vì để diễn bày ra chữ “Nghĩa”, là để tổng kết văn hóa Nho gia, lưu lại tư tưởng nhân nghĩa. Song một tư tưởng khác cũng được định sẵn, tư tưởng Phật gia sẽ bắt đầu du nhập vào Trung Quốc một cách toàn diện, vì thế mà tiếp đó đã tạo nên thời đại Đường thống nhất, đặt định tam giáo đại phồn vinh, đặt định cơ sở cho thời đại văn hóa đạt đến đỉnh cao.

Do đó chú định triều Tấn chỉ là thống nhất ngắn ngủi, chú trọng hình thành lý luận độc lập, thẩm mỹ quan của các loại nghệ thuật như văn học, thơ ca, thư họa, tiếp tục đặt định cơ sở cho văn hóa nghệ thuật triều Đường sau đó, rồi lại phân thành Nam Bắc triều. Giai đoạn Nam Bắc triều này, chính quyền thay đổi liên tục, mục đích là để các dân tộc thiểu số không ngừng dung hợp cùng Hán tộc Trung Nguyên, hoàn thành đại dung hòa văn hóa dân tộc, mục đích chính là để văn hóa Phật từ Tây Vực rộng lớn truyền vào Trung Nguyên, phổ biến Phật giáo hưng thịnh tại Trung Nguyên, đặt định cơ sở tư tưởng văn hóa tu luyện Phật pháp.

Cho nên nhìn lịch sử của thời kỳ này, nhiều hoàng đế đều tín phụng Phật giáo, một số lớn chùa chiền được khởi công xây dựng. Chúng ta nhìn về thời Nam Triều giàu có, chùa chiền các đời Nam Triều, tăng ni các loại rất nhiều. Theo ghi chép, nhà Tống có 1913 chùa chiền, tăng ni 36000 người; nhà Tề có 2015 chùa chiền, tăng ni 32500 người; nhà Lương có 2846 chùa chiền, tăng ni 82700 người; nhà Trần có 1232 chùa chiền, tăng ni 32000 người. Không ít vương thần, quan lớn cùng văn nhân học sĩ, thậm chí dân gian cũng hết lòng tin theo Phật pháp, cho nên chùa chiền khắp cả Giang Đông, mà thời Lương Vũ Đế là tạo ra chùa chiền nhiều nhất, cũng xa hoa và đẹp đẽ nhất.

Sau đoạn lịch sử đầy biến động này, cuối cùng Phật pháp đã tiến nhập vào Trung Nguyên, đặt xuống cơ sở hưng thịnh toàn diện cho Phật pháp triều Đường. Hết thảy nhìn như không có thứ tự, kì thực là an bài từng lớp kịch đã định sẵn để lưu lại lịch sử văn hóa Thần truyền.

Nhưng dù ngay ở thời đại ngày nay, lịch sử vẫn chứng thực như cũ, ‘nhân quân hưng quốc, hôn quân vong quốc’ (vua nhân ái thì nước hưng thịnh, vua ngu tối thì nước diệt vong). Do không là trọng điểm của câu chuyện này, không nói ra đây, song nếu bạn có hứng thú có thể tự nghiên cứu.

Câu chuyện Lương Vũ Đế

Lương Vũ Đế là hoàng đế khai quốc nhà Lương thời kỳ Nam Triều, đồng thời ông cũng là một tín đồ Phật giáo rất kiền thành. Trong ba bốn mươi năm thống trị của ông, được sử gia ca tụng là thời thịnh thế chưa từng có trong suốt hơn 200 năm các triều đại Ngụy Tấn thời kỳ Nam triều, tại các phương diện chính trị và văn hóa, cũng có được thành tựu rất huy hoàng. Sách sử nói ông: “Lục nghệ đầy đủ, chơi cờ vượt trội, lịch số âm dương, bói toán bốc quẻ, cái gì cũng giỏi… Thư từ thảo lệ, cưỡi ngựa bắn cung, không gì không hay.” (thư từ thảo lệ: là thư từ theo lối viết thảo Lệ thư). Sau đây là một câu chuyện liên quan với Lương Vũ Đế.

Lương Vũ Đế nghe người khác nói có một vị gọi là Khái Đầu sư, vị này tu thiền rất tinh tấn, đồng thời rất có thần thông, cho nên tâm sinh ý kính trọng, muốn gặp gỡ ông một chút, liền phái người đi tìm. Có một ngày, Lương Vũ Đế đang cùng người khác ngồi chơi cờ. Bỗng nhiên có sứ giả đến bẩm báo: “Bệ hạ muốn tìm vị pháp sư, ông ta đã đến ạ!” Lúc ấy Lương Vũ Đế đang chuyên tâm đánh cờ, muốn diệt một quân cờ của đối phương, lại lớn tiếng nói ra: “Giết chết!” Sứ giả liền mau ra ngoài, đem vị pháp sư này chém chết.

Chờ bàn cờ này chơi xong, Lương Vũ Đế mới nhớ tới, nói: “Mời pháp sư vào!” Sứ giả trả lời nói: “Vừa rồi bệ hạ mệnh lệnh giết chết, thần đã phụng mệnh giết ông ta rồi ạ!” Lương Vũ Đế rất đau buồn, liền hỏi: “Pháp sư trước khi chết, có nói gì không?” Sứ giả nói: “Pháp sư nói: Bần tăng vô tội! Chỉ là do ta trước đây có một đời là nông dân, lúc dùng thuổng sắt đào đất, giết lầm một con giun. Hoàng Thượng đương thời chính là con giun ấy. Cho nên bây giờ ta bị cái báo ứng này.” Lương Vũ Đế nghe xong, nước mắt chảy xuống, hối hận không thôi.

Cố sự này, vì để nói cho người đời sau, Phật pháp giảng nhân quả báo ứng là tồn tại chân thật, người không thể tùy ý giết hại sinh mệnh, thiện ác hữu báo là thiên lý, vô luận là người nào, thân phận nào, đều phải tự gánh chịu quả báo từ việc làm thiện ác của mình. ‘Thiện nhân thiện báo, ác nhân ác báo’ khởi lên tác dụng khuyến thiện.

Tác giả: Lưu Như

Nguồn ChanhKien.Org

Xem Tam Tự Kinh – Tập 29: Đường Thái Tông Lý Thế Dân

Video tham khảo: Câu chuyện về Vũ Đế

Tam Tự Kinh - tập 29 - Câu chuyện về Vũ Đế

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

5 2 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x