Bài 19
Nguyên văn
曰國風(1),曰雅(2)頌(3),
號(4)四詩(5),當諷詠(6)。
詩既(7)亡(8),春秋(9)作(10),
寓(11)褒(12)貶(13),別(14)善惡。
Bính âm
曰(yuē) 國(guó) 風(fēng), 曰(yuē) 雅(yǎ) 頌(sòng),
號(hào) 四(sì) 詩(shī), 當(dāng) 諷(fèng) 詠(yǒng)。
詩(shī) 既(jì) 亡(wáng), 春(chūn) 秋(qiū) 作(zuò),
寓(yù) 褒(bāo) 貶(biǎn), 别(bié) 善(shàn) 惡(è)。
Chú âm
曰(ㄩㄝ) 國(ㄍㄨㄛˊ) 風(ㄈㄥ),
曰(ㄩㄝ) 雅(一ㄚˇ) 頌(ㄙㄨㄥˋ),
號(ㄏㄠˋ) 四(ㄙˋ) 詩(ㄕ),
當(ㄉㄤ) 諷(ㄈㄥˋ) 詠(ㄩㄥˇ)。
詩(ㄕ) 既(ㄐ一ˋ) 亡(ㄨㄤˊ),
春(ㄔㄨㄣ) 秋(ㄑ一ㄡ) 作(ㄗㄨㄛˋ)。
寓(ㄩˋ) 褒(ㄅㄠ) 貶(ㄅ一ㄢˇ),
別(ㄅ一ㄝˊ) 善(ㄕㄢˋ) 惡(ㄜˋ)。
Âm Hán Việt
Viết Quốc Phong, Viết Nhã Tụng,
Hiệu Tứ thi, Đương phúng vịnh.
Thi ký vong, Xuân Thu tác,
Ngụ bao biếm, Biệt thiện ác.
Tạm dịch
Rằng Quốc Phong, rằng Nhã Tụng,
Là Tứ thi, để diễn ngâm.
“Kinh Thi” mất, viết “Xuân Thu”,
Ý khen chê, phân thiện ác.
Từ vựng
(1)Quốc Phong (國風): một thể thơ của “Kinh Thi”. Chỉ những bài ca dao dân gian của các nước chư hầu thời nhà Chu. Tổng cộng có 160 bài, chia làm 15 nước. Đại khái là chỉ các bài dân ca từ thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu.
(2)Nhã (雅): một thể thơ của “Kinh Thi”, được chia thành “Đại Nhã” và “Tiểu Nhã”. “Đại Nhã” là các bài thơ ca các chư hầu dùng khi yết kiến Thiên tử. “Tiểu Nhã” là các bài thơ ca mà Thiên tử dùng trong các yến tiệc đãi khách.
(3)Tụng (頌): một thể thơ của “Kinh Thi”, là các bài thơ dùng trong lễ bái, được phân thành ba loại “Chu Tụng”, “Lỗ Tụng”, “Thương Tụng”.
(4)hiệu (號): được gọi là, xưng là, danh xưng, mệnh danh.
(5)Tứ thi (四詩): bốn thể thơ của “Kinh Thi”. Bao gồm: Phong (Quốc Phong), Đại Nhã, Tiểu Nhã và Tụng.
(6)phúng vịnh (諷詠): đọc diễn cảm cùng ngâm xướng.
(7)ký (既): đã, vừa, rồi.
(8)vong (亡): mất
(9)Xuân Thu (春秋): tên sách, đây là cuốn sách do Khổng Tử biên soạn căn cứ vào sách sử nước Lỗ, ghi chép lại lịch sử 242 năm từ thời Lỗ Ẩn Công năm thứ nhất (năm 722 TCN) đến thời Lỗ Ai Công năm thứ 14 (năm 481 TCN). Đây là biên niên sử khá sớm của Trung Quốc. Văn tự của nó đơn giản, chứa nhiều bình phẩm, đời sau gọi là “Xuân Thu Bút Pháp”.
(10)tác (作): làm ra, sinh ra, sáng tác, thực hiện.
(11)ngụ (寓): ngụ ý, ở, chỗ ở.
(12)bao (褒): tán dương, khen ngợi.
(13)biếm (貶): phê bình, chỉ trích.
(14)biệt (别): phân biệt, phân tách.
Dịch nghĩa tham khảo
“Kinh Thi” có 4 thể thơ gồm: Quốc Phong, Đại nhã, Tiểu nhã, Tụng được gọi là Tứ thi, do đó “Kinh Thi” thường phải đọc diễn cảm cùng ngâm nga trầm bổng.
Sau khi nhà Chu suy bại, “Kinh Thi” dần dần bị quên lãng. Do đó Khổng Tử bèn căn cứ vào sử sách nước Lỗ để biên soạn cuốn “Xuân Thu”, bộ sách này chứa đựng những lời bình luận khen chê để phân rõ thiện ác.
Đọc sách luận bút
Bài học này rõ ràng nói về nội dung và tác dụng chính của hai bộ kinh điển “Kinh Thi” và “Xuân Thu” trong Lục kinh của Nho gia.
Khổng Tử từng nói: “Bất học thi, vô dĩ ngôn” (Không học “Kinh Thi” thì không biết lấy gì để nói chuyện), Khổng Tử đã biên soạn bộ “Kinh Thi” cho các đệ tử mình học tập, chính là nhằm giáo dục đệ tử có thể đặt chân trong xã hội và có thể trị quốc. Cho dù đó là giao tiếp xã hội, hay là ra làm quan, thậm chí là trị gia, cũng đều phải biết cách làm sao biểu đạt tâm ý, nguyện vọng của mình hoặc là chí hướng, đó gọi là ‘thi dĩ ngôn chí’ (dùng thơ nói lên ý chí). Con người sống trên thế gian, cần phải có tư cách, lập chí (tạo lập ý chí) mới có hướng nỗ lực cho mình, thường thì ý chí và nguyện vọng cùng hợp chung một chỗ. “Chí” 志 chính là mong muốn trong tâm, đặc điểm lớn nhất của thi ca chính là trực tiếp biểu đạt tâm ý, bộc lộ ra tính tình thật của bản thân, không kiểu cách, không giả tạo. Vì vậy, Khổng Tử để mọi người dưỡng tính qua việc đọc thơ, biết rõ được chí hướng của mình, lại hiểu được tâm tư nguyện vọng của các chư hầu, và chân thực đối diện với tâm chí người ta.
Tại sao khi chúng ta hiểu được nguyện vọng của người khác thì có thể có được chỗ đứng trong xã hội, có thể biết cách nói chuyện, biết lập ngôn viết sách ra sao? Mới có thể trị quốc được? Khổng Tử nói trong “Kinh Thi” rằng: “Nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà.” (Một lời tóm tắt là: Không nghĩ tà.). Câu này là trong thiên Vi Chính sách “Luận Ngữ”, chính là lời dạy bảo đệ tử cách làm sao quản trị chính sự quốc gia. Lời này với hàm nghĩa là “Kinh Thi” có 300 bài đều bày tỏ ra tình cảm chân thực, ý nguyện và ý nghĩ chân thực, không chút dâm tà (tà xấu). Có thể thấy rằng, không có dâm tà, ý nguyện chân thành mới là điều quan trọng nhất trong đạo làm người và trị quốc. Chí hướng của Khổng Tử là phục hưng Vương đạo (đạo làm vua) và Chu Lễ (lễ nghi triều Chu). Mà gốc của Chu Lễ nằm ở “Trực” (ngay thẳng), chính là chân thật không làm giả. Cho nên trong “Luận Ngữ. Thái Bá” ông còn nói về việc học thơ như sau: “Hưng ư thi, lập ư lễ, thành ư nhạc.” (Hứng thú nhờ thơ, lập thân nhờ lễ, thành tựu nhờ nhạc), tức là nói học tập “Kinh Thi” có thể phát triển chí hướng, biểu đạt ý chí, tình cảm, nhưng cũng có mức độ nhất định. Vì vậy, lập thân nhờ lễ, biểu đạt có tiết chế, mới có thể giúp người ta tiếp nhận, mới có thể thực hiện thuận lợi. Tóm lại học “Kinh Thi” có thể khơi dậy tình cảm ý chí cao quý của con người, từ đó Khổng Tử cho rằng khởi đầu tu dưỡng nhân cách xử thế là học “Kinh Thi”. Nếu một người không dám nói thẳng ra ý chí chân thực của mình là gì, nếu tâm nguyện và tình cảm của bách tính, đó cũng là lòng dân ra sao cũng không biết, không nhìn thẳng vấn đề thì trước tiên là không đạt được “Chân”, như vậy bạn không thể nào rung động được lòng người, không cách nào hiểu được lòng dân, càng không cách nào nói đến trị quốc.
Do đó, đọc “Kinh Thi” có thể khơi dậy chí hướng, có thể xem dân phong (các bài ca dao dân gian), thậm chí có thể học được kỹ năng biểu đạt như thế nào. Dù kỹ xảo cũng là để truyền đạt tâm ý tốt hơn cho đối phương, song mục đích là để lập thân trong xã hội, có phương hướng và tư tưởng rõ ràng trong việc trị quốc, nhằm xử lý chính sự, xử lý những khiếu nại của dân chúng, quang minh chính đại mà dẫn dắt họ. Vì vậy, nhà Chu đặt ra quan viên sưu tầm thơ, để “quan sát phong tục, chính sự được mất”. Có thể thấy rằng, việc Khổng Tử bảo các đệ tử học “Kinh Thi”, không phải nhằm mục đích chính là để thưởng thức văn học, mà là phân rõ tâm chí, là đòi hỏi tính chân thật, là phẩm đức đầu tiên mà bậc quân tử phải có được. Chỉ như vậy, mới có thể là người chân chính có lễ. Có thể trị quốc thiết thực, không mua danh trục lợi, chân chính xử lý chính sự quốc gia, vì dân phục vụ.
Còn với “Xuân thu”, là bút pháp trực tiếp lấy lịch sử, chỉnh lý lịch sử, Khổng Tử chỉnh lý biên niên sử nước Lỗ, vì ông ý thức được những bài học kinh nghiệm trong lịch sử quan trọng như thế nào đối với thế hệ mai sau. Khổng Tử là người nước Lỗ, và đương nhiên ông chỉnh lý lịch sử nước Lỗ, “Xuân Thu” là cách gọi lịch sử thời Tiên Tần (giai đoạn lịch sử của Trung Quốc trước khi nhà Tần thống nhất), do Khổng Tử viết về thời Xuân Thu của nước Lỗ, nên các đời sau đều lấy bút pháp, cũng là cách viết của sách này để làm mẫu. Căn cứ theo mục đích của Khổng Tử, việc viết sử là để dạy bảo việc trị quốc quang minh chính đại, lưu cấp cho đời sau kinh nghiệm và trí tuệ, minh bạch quy luật thế đạo (thói đời) hưng suy, để bậc quân vương và thần tử đời sau đều phải lấy sử làm gương. Có thể nói, việc bình phẩm bút pháp “Xuân Thu”, đây cũng là cách viết, bình luận nhân vật và sự được mất của chính sự, thiện ác, cũng là vì để đời sau hấp thụ giáo huấn. Đây chính là mục đích của đọc lịch sử, và cũng là nguyên nhân tại sao Khổng Tử viết lịch sử, khuyên đệ tử đọc lịch sử, đọc “Xuân Thu”. Vì vậy, một nội dung trọng yếu của giáo dục chính là đọc lịch sử.
Nhưng nền giáo dục hiện đại ngày nay đọc lịch sử chẳng để làm gì, chẳng qua là khoe khoang mình biết nhiều kiến thức hay là vì mong muốn có điểm cao mà thôi. Không thể đọc lịch sử ở góc độ tích cực, cũng không biết làm sao áp dụng vào cuộc sống hiện thực, đây chính là nguyên nhân học sinh không còn yêu thích học tập qua việc đọc sách. Không có chí hướng, không có tham chiếu lịch sử, không biết học để áp dụng, dẫn đến không có mục đích tiếp thu các loại thông tin. Rất nhiều học sinh vì thế mà trốn học, cảm thấy học tập rất mệt mỏi và không vui vẻ. Nguyên nhân chính là ở chỗ này. Hầu hết ngày nay việc truyền thụ là không có chí hướng, không có mục đích học tập, đây là vấn đề lớn nhất của nền giáo dục hiện đại.
Câu chuyện: Hỏi một biết ba
Khi con trai Khổng Tử chào đời, vua nước Lỗ sai người đem một con cá chép đến tặng cho Khổng Tử, do đó Khổng Tử đặt tên con là Khổng Lý, tự là Bá Ngư, ý là con cá mà Lỗ Bá tặng.
Có một lần, học trò của Khổng Tử là Trần Kháng hỏi Bá Ngư: “Cha ngài có truyền thụ điều gì đặc biệt cho ngài hay không?” Bá Ngư nói: “Không có. Một lần nọ Cha tôi đứng một mình ở sân, tôi bước nhanh qua. Cha hỏi tôi: “Con đã học “Kinh Thi” chưa?” Tôi thưa: “Dạ chưa!”. Cha tôi nói: “Không học Kinh Thi, thì không hiểu lòng người, không hiểu ý dân, thì không có suy nghĩ độc lập, không cách nào nói ra lời có ý nghĩa”. Tôi bắt đầu trở về học “Kinh Thi”. Một lần khác ông lại đứng một mình ở sân, tôi bước nhanh qua, Cha tôi lại hỏi: “Con đã học Lễ Ký chưa?” Tôi thưa: “Dạ chưa!”. Cha tôi nói: “Không học Lễ, thì không thể có chỗ đứng trong xã hội”. Tôi bắt đầu trở về học Lễ Ký, tôi chỉ nghe Cha tôi dạy bảo hai lần này thôi!”. Trần Kháng trở về vui mừng nói: “Hôm nay ta hỏi một nhưng lại thu hoạch được ba: biết được tác dụng của “Kinh Thi”, biết được tác dụng của “Lễ Ký”, và còn biết được người quân tử cũng không thiên vị con trai của mình”.
Rất nhiều người lấy câu “Bất học thi, vô dĩ ngôn” mà Khổng Tử nói, lý giải thành học kỹ xảo để nói chuyện, kỳ thực không phải vậy, bất kể có bao nhiêu kỹ xảo, chí hướng của bậc quân tử là vì muốn quản trị và an định thịnh thế, đối với sinh hoạt, tâm nguyện, thống khổ của bách tính đều muốn chú ý, mới có thể biết cách làm sao hốt thuốc đúng bệnh, nghĩ ra thượng sách. Cho dù là đối với gia đình cũng giống như vậy, thơ ca có thể trực tiếp dốc ra tâm chí và tình cảm tốt nhất, cổ nhân xem trọng thi ca, không chỉ vì thưởng thức văn học, mấu chốt nằm ở “ngôn chí” (nói lên ý chí), có thể trực tiếp nhìn thấy tình cảm và chí hướng trong lòng người. Đương nhiên hơn nữa là lời lẽ trong thi ca rất ưu mỹ, học được rồi tự nhiên sẽ biết vận dụng, còn có thể biểu đạt hết sức hợp lý. Đây lại là kỹ xảo mà người đời sau quan tâm. Những kỹ xảo này là tự nhiên có được, không được phép đảo ngược gốc ngọn.
Khổng Tử bảo con trai đọc Thi học Lễ là để “Khởi ở tình”, biết mình phải biểu đạt ra sao, ý chí cần phải rõ ràng thế nào, nhưng cùng lúc còn phải “Dừng ở lễ”. Có chân tình cần phải biểu đạt, nhưng lại không thể làm quá mức, phải giữ có chừng mực, hợp tình mà còn phải hợp lý, mà lễ của người ta sẽ khởi tác dụng tiết chế. Hợp lễ về cơ bản sẽ hợp lý, có thể khiến người ta tiếp nhận, mới có thể phát huy tác dụng đạt hiệu quả; nếu không thì sẽ làm hại người, làm cho người ta phản cảm, mâu thuẫn, làm hư việc. Như thế thì không cách nào đặt chân trong xã hội, không có được sự thừa nhận và chào đón. Chính là, khi làm bất cứ chuyện gì thì đều cần phải cân nhắc đến cảm thụ của người khác.
Tác giả: Lưu Như
Nguồn ChanhKien.Org
Xem Tam Tự Kinh – Tập 20: Bện da đứt ba lần
Video tham khảo: Hỏi một biết ba
Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.
Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.
Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).
Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!
Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!