Thiên tự văn (5): Hải hàm hà đạm

Thiên tự văn (5): Hải hàm hà đạm
Thiên tự văn (5): Hải hàm hà đạm

Nguyên văn:

海  咸  河  淡  (1)   鱗  潛  (2)   羽  翔  (3)   龍  師  (4)   火  帝  (5)   鳥  官  (6)   人  皇  (7)

Bính âm:

海 (hǎi)           咸 (xián)           河 (hé)           淡 (dàn)
鱗 (lín)            潛 (qián)           羽 (yǔ)           翔 (xiáng)
龍 (lóng)         師 (shi)             火 (huǒ)        帝 (dì)
鳥 (niǎo)         官 (guan)         人 (rén)          皇 (huáng)

Chú âm:

海 (ㄏㄞˇ)       咸 (ㄒㄧㄢˊ)       河 (ㄏㄜˊ)      淡 (ㄉㄢ)
鱗 (ㄌㄧㄣˊ)   潛 (ㄑㄧㄢˊ)       羽 (ㄩˇ)          翔 (ㄒㄧㄤˊ)
龍 (ㄌㄨㄥˊ)   師 (ㄕ)                火 (ㄏㄨㄛˇ)  帝 (ㄉㄧ)
鳥 (ㄋㄧㄠˇ)   官 (ㄍㄨㄢ)        人 (ㄖㄣˊ)      皇 (ㄏㄨㄤˊ)

Âm Hán Việt:

Hải hàm hà đạm,
Lân tiềm vũ tường.
Long sư hòa đế,
Điểu quan nhân hoàng.

Giải thích:

1. Nghĩa của chữ:

  • Hải (海): là khu vực nước trên bề mặt đất, diện tích nhỏ hơn nhiều so với biển (Dương 洋) và gần lục địa (đất liền).
  • Hàm (咸): mặn, một loại vị giác, là vị của muối.
  • Hà (河): cách thường gọi dòng nước, dòng chảy, dòng sông.
  • Đạm (淡): nhạt, màu sắc nhạt, hương vị không nồng, không đậm đặc.
  • Lân (鱗): loài cá hoặc động vật bò sát, bên ngoài thân có vảy, sắp xếp tựa như ngói trên mái nhà dùng để bảo hộ thân thể.
  • Tiềm (潛): lặn, là loại hoạt động dưới nước.
  • Vũ (羽): lông vũ, là cách gọi khác của loài chim.
  • Tường (翔): lượn, liệng, bay vòng quanh trong không trung.
  • Long (龍): là loài thần thú trong truyền thuyết cổ đại Trung Quốc có thân rắn, đầu cá sấu, chân thằn lằn, móng chim ưng, đuôi rắn, sừng hươu, vảy cá, khóe miệng có thiếu, dưới trán có châu ngọc. Nó lúc ẩn lúc hiện, gió xuân thì bay lên trời, gió thu thì lặn xuống biển sâu, còn có thể hô mưa gọi gió.
  • Sư (師): quan viên.
  • Hỏa (火): lửa, hình ảnh giống như ngọn lửa.
  • Đế (帝): cách gọi người đứng đầu nhà nước (nguyên thủ) thời Trung Quốc cổ đại.
  • Điểu (鳥): giống chim biết bay. Thân thể có lông vũ, hai cánh hai chân, máu nóng đẻ trứng.
  • Quan (官): người xử lý việc quốc gia, phục vụ dân chúng.
  • Hoàng (皇): quân chủ, vua.

2. Nghĩa của từ:

(1) Hải hàm hà đạm (海咸河淡): nước biển là mặn, nước sông là nhạt.

(2) Lân tiềm (鱗潛): loài cá dựa vào mang để sống dưới nước.

(3) Vũ tường (羽翔): loài chim do có cánh lông vũ, nên có thể bay lượn trên không trung.

(4) Long sư (龍師): tương truyền Phục Hi thị lấy “Long” để gọi quan chức, gọi là “Long sư” .

(5) Hỏa đế (火帝): Viêm đế (Thần Nông thị) là một trong Ngũ đế thời viễn cổ. Cũng có truyền thuyết chỉ là thần Toại Nhân dạy người khoan cây lấy lửa.

(6) Điểu quan (鳥官): dùng tên chim để gọi quan chức.

(7) Nhân Hoàng (人皇): tên một vị thủ lĩnh bộ lạc thời viễn cổ, cùng Thiên Hoàng, Địa Hoàng hợp lại gọi là Tam Hoàng.

Lời dịch tham khảo:

Nước biển là mặn, nước sông là nhạt. Loài cá dựa vào mang có thể hô hấp trong nước, nên có thể lặn, sống dưới nước. Loài chim có cánh lông vũ, nên có thể tự do tự tại bay lượn trên không trung.

Tương truyền các vị vua thời viễn cổ Trung Quốc phần lớn đều là Thần có phẩm đức và trí tuệ rất cao do Thiên thượng phái xuống, họ đến để chỉ dạy con người những vấn đề ăn mặc. Cho nên con người đối với có bậc quân vương có Thánh đức, có cống hiến đều vô cùng sùng kính; ví dụ như Phục Hi thị dạy dân chúng đánh cá, săn bắt và chăn nuôi bởi vì gặp được Long Mã (Thần thú thân ngựa đầu rồng) hiến tặng Hà Đồ, thế là sau đó đã lấy ‘Long’ để gọi quan chức, cho nên gọi là ‘Long sư’. Thần Nông thị mệnh Hỏa, nên được gọi là Hỏa Đế. Khi Thiếu Hạo, con của Hoàng Đế lên ngôi, có Phượng Hoàng đến bái mừng, cho nên liền lấy tên chim để gọi tên cấp quan, bởi vậy gọi là ‘Điểu quan’. Còn có một vị thủ lĩnh bộ lạc thời viễn cổ, bởi vì được dân chúng kính yêu mà gọi là “Nhân Hoàng”, cùng Thiên Hoàng, Địa Hoàng hợp lại gọi là Tam Hoàng.

Câu chuyện văn tự:

Lúc này đây chúng ta sẽ giới thiệu một chữ vô cùng quan trọng, bạn đoán xem là chữ gì? Haha! Không phải chữ nào khác, chính là chữ “Nhân” 人 (người), rất đơn giản chỉ có hai nét mà thôi! Chữ “Nhân” này, thuộc về loại tượng hình, Giáp cốt văn viết là “image 4” , Kim văn viết là “image 8“. Trong cách viết Giáp cốt văn và Kim văn chữ “Nhân” 人, tựa như vẽ bên hông một người đang đứng, có đầu, có lưng, có chân. Chữ Tiểu triện viết là “image 9” , mặc dù vẫn là đứng bên hông, nhưng đã chuyển thành hình dạng thân cúi xuống. Tại sao cổ nhân muốn cải biến như vậy? Bởi vì cổ nhân cảm thấy con người cần phải khiêm tốn, cần phải bình hòa, phải kính Trời, tuân theo Đất, mới có thể tồn tại hài hòa cùng với thiên nhiên, cho nên đã đem chữ “Nhân” viết thành hình dạng hai cánh tay hạ cúi xuống.

Chữ Nhân trong Giáp cốt văn

Chữ Nhân trong Giáp cốt văn – Kim văn – Tiểu triện

Suy ngẫm và thảo luận:

Trước tiên xin đọc câu chuyện ở phần phụ lục để trả lời cho các vấn đề bên dưới:

  1. Con người làm thế nào mới có thể tồn tại hòa hợp cùng thiên nhiên? Mời nói ra chia sẻ cùng mọi người!
  2. Mời bạn nói về Thần Nông thị có những ảnh hưởng trọng đại nào đối với nhân loại? Tại sao lại được người đời sau kính ngưỡng?
  3. Bạn từng tới nông trường hoặc nông thôn chưa? Nơi đó sản xuất ra cái gì? Bạn có thích sinh hoạt ở nơi đó không? Mời nói ra chia sẻ cùng mọi người!

Phụ lục 1: Nữ Oa tạo ra con người

Tại Trung Quốc, tương truyền con người là do Thần Nữ Oa tạo ra. Sau khi Bàn Cổ lấy sinh mệnh của mình để tạo ra thiên địa, trên trái đất dù có núi có nước, có hoa có cây, có côn trùng cá chim thú, nhưng đối với Thần Nữ Oa mà nói, luôn cảm thấy giống như còn thiếu khuyết cái gì đó. Thế là Bà lấy bùn đất, cùng chút nước, chiểu theo hình tượng của mình mà nặn vật.

Một hồi sau, nặn ra một thứ nho nhỏ có hình dáng không sai biệt với mình lắm, có đủ tứ chi ngũ quan, Thần Nữ Oa thổi cho nó một luồn sinh khí, rồi để nó dưới đất, nó bắt đầu chuyển động, Nữ Oa xem thấy rất hài lòng, lại lần lượt nặn ra nhiều hơn, Bà gọi chúng là “Người”. Bà hi vọng tạo ra “Người” nhiều một chút để làm phồn vinh trái đất. Thế nhưng dùng tay nặn quá chậm, thế là Bà tiện tay lấy một đoạn dây leo, nhúng vào bùn nhão rồi vẩy lên mặt đất, bùn nhão vừa rơi xuống đất liền biến thành các người nhỏ, cách này so với nặn thì nhanh hơn nhiều. Bà càng vẩy càng phấn chấn, người được tạo ra càng nhiều, Bà dùng cách này phân tán người đến bốn phương tám hướng, thế là trên khắp trái đất đều có người.

Con người là phỏng theo hình dáng của Thần mà tạo nên, cùng với các sinh vật khác là khác biệt, càng không phải là do sự tiến hóa mà tạo thành. Nhưng do nhân loại tự đại (kiêu căng, ngạo mạn), cho rằng mình là anh linh của vạn vật, đã bắt đầu không tôn trọng sinh mệnh khác, lạm dụng chiếm đoạt, lạm dụng sát sinh; cho rằng có thể “Nhân định thắng thiên” (người quyết định hơn cả Trời), liền bất kính Trời, khinh Đất, không kính trọng Thần đã tạo nên thế giới, bắt đầu lạm dụng khai khẩn chặt phá, phá hoại môi trường sinh thái, trở thành sát thủ của trái đất. Vì cướp đoạt tư lợi, không tiếc giết hại đồng loại của mình, đây là kết quả do nhân loại đã tự tư tự lợi (ích kỷ, vì lợi ích của riêng mình).

Quan niệm tư tưởng của người hiện đại trong cuộc sống lại tự cho là đúng, chấp trước với hiểu biết nông cạn của mình, thường thường nhìn không thấu chân tướng của sự thật, làm những việc không nên làm, tạo thành những tổn thương không cách nào bù đắp. Nếu muốn thay đổi, cần phải học tập cổ nhân khiêm tốn, tự nhiên, bình hòa, có thái độ kính Trời, trọng Đất, mới có thể tồn tại hài hòa cùng với thiên nhiên và hết thảy các sinh mệnh khác, cũng mới không phụ bổn ý của Thần tạo ra con người.

Phụ lục 2: Thần Nông

Sau khi Thần Nữ Oa tạo ra con người, nhân loại trên trái đất ngày càng nhiều, sinh sống chủ yếu bằng cách săn bắt dã thú, nhưng đi săn là việc rất nguy hiểm, lại không nhất định có thể săn được, bởi vậy thức ăn thường không đủ. Lúc này, xuất hiện một vị Thần to lớn tới nhân gian trợ giúp con người giải quyết vấn đề thức ăn thường xuyên không đủ. Trong truyền thuyết Ông có đầu trâu thân người, giỏi về làm nông, bởi vậy được gọi là Thần Nông thị. Ông còn có một cái bụng trong suốt như thủy tinh, có thể nhìn thấy tình hình thức ăn biến hóa trong bụng cho nên Ông thường nếm thử các loại thực vật, rễ, thân, lá, hoa, quả.

Thần Nông làm việc đức cho thiên hạ, trên trời làm mưa “Kê” (Túc 粟) rơi xuống. Thần Nông hiểu rõ đây là Thiên thượng ban cho con người lương thực để sinh sống, nếu như gieo trồng rộng rãi, mọi người sẽ có lúa gạo để ăn. Sau đó Thần Nông lại phát hiện ngũ cốc. Thần Nông bắt đầu chế tạo dụng cụ cày ruộng, rồi tự mình xuống ruộng dạy cho mọi người cách trồng trọt: Trước tiên lật đất ruộng lên cho tơi xốp, rồi gieo hạt giống ngũ cốc cho nảy mầm, rồi theo thời tiết mà phân ra bốn mùa, căn cứ vào vùng đất cao thấp, theo đặc tính của trăm loại cốc, xem xét sao cho thích hợp mà trồng; cấy lúa cần phải có quy tắc, sao cho cây giống có thể hấp thụ được nước và ánh sáng đồng đều; khi cây giống đang trưởng thành phải không ngừng tưới tiêu và bảo hộ, để tránh khô hạn và chim thú phá hoại; đến khi thu hoạch lúa chín, hạt ngũ cốc phải đem phơi nắng và chà vỏ, sẽ có thể nấu ăn hoặc tồn trữ.

Mọi người đều rất tin theo lời Thần Nông, liền theo Ông làm ruộng vất vả cần cù trồng thử 9 loại ngũ cốc: hạt dẻ (Lật 栗), cao lương (Thuật 秫), bắp ngô (Ngọc mễ 玉米), lúa (Đạo 稻), mè (Ma 麻), đậu nành (Đại đậu 大豆), đậu đỏ (Tiểu đậu 小豆), lúa mạch (Đại mạch 大麦) và lúa mì (Tiểu mạch 小麦). Đến mùa thu, 9 loại ngũ cốc đều trưởng thành, hạt trĩu nặng phủ kín ruộng đồng, người lớn con nít vì thế mà hồ hởi reo hò: thu hoạch, phơi nắng, tuốt lúa, phơi gạo, chà vỏ, tồn trữ, đem hạt gạo trắng bóng nấu thành cơm tỏa hương thơm ngào ngạt, mọi người mới biết được gạo và vẻ đẹp của hạt trồng hơn hẳn các thứ khác. Từ đó mọi người vui với lao động cày cấy, gieo trồng vào mùa xuân thu hoạch vào mùa thu, làm nông thay thế cho săn bắt. Thần Nông khi ấy còn xây một tòa thành để sàng lọc và tồn trữ hạt giống, gọi là “Cốc thành”. Mọi người tuy không còn bị đói khổ, nhưng vẫn còn bị thương bệnh mà thống khổ, thế là Thần Nông ngay đó đã thu thập trong cây cỏ các loại có dược tính để trị thương bệnh, giải trừ thống khổ bệnh tật cho mọi người. Vì để phân biệt dược tính và công dụng của các loại thảo dược, Thần Nông tự mình nếm thử trăm loại cây cỏ, xem sự phản ứng của nó bên trong cơ thể như thế nào mà ghi chép lại, đây là một việc vô cùng nguy hiểm, Thần Nông từng bị trúng độc hơn 70 lần trong một ngày. Cuối cùng tìm được 365 loại dược vật, sau đó căn cứ vào triệu chứng bệnh mà bốc thuốc. Lấy một loại cỏ trị một loại bệnh gọi là “Bản thảo”, lấy vài loại cỏ trị một loại bệnh gọi là “Y phương”, từ đây đặt định ra cơ sở của Trung y.

Thần Nông quản trị lâu ngày, phong tục dân chúng chất phác đôn hậu, vạn nước hòa nhã. Thần Nông tạo ra tiêu chuẩn đo lường đơn giản để mọi người giao dịch. Tạo ra phân chia Cân – Lạng để mọi người biết nặng nhẹ; chế ra Phân – Thốn – Trượng – Xích để mọi người biết dài ngắn; chế ra Thăng – Đấu – Cân – Thạch để mọi người đong nhiều ít; chế ra Thập – Bách – Ngàn – Vạn để cho mọi người biết tăng giảm. Rồi mới lập ra Triền (nhà ở; quán xá) với Quốc (quốc gia, nước), chợ búa trong ngày, dân chúng tụ họp mua bán, sắp xếp đâu vào đấy, đây chính là nguồn gốc của các ngành Y học, Nông nghiệp và Thương nghiệp.

Thần Nông thấy ban đêm mọi người không có ánh sáng sẽ khó làm việc, liền quan sát trong cỏ cây có chất béo, đem giã rồi vắt ra “Dầu” (Du 油), dúm cỏ làm dây bấc, nhúng vào dầu đốt lên sẽ có ánh sáng như ban ngày, dùng để thờ cúng hay nghênh đón thân hữu, nhân dân cảm thấy tốt lành, thế là tôn Thần Nông là “Viêm đế”. Thần Nông quan sát trong trăm loài thú, thấy trâu có lực lớn, bền bỉ mà lại dễ thuần phục, liền chế tạo ra cày sắt đeo phía sau con trâu, một người đỡ cày, để nó giúp người cày ruộng. Thần Nông tạo ra Ngũ huyền cầm (đàn 5 dây), gồm Cung, Thương, Giác, Chủy, Vũ, ứng hợp với ý nghĩa của Ngũ Hành; lại nung đất làm ra Khuông, hai mặt bọc da, chế ra để đánh đùng đùng vang dội như “Trống” (Cổ 鼓), đây là giai đoạn đầu của âm nhạc.

Vì để cải thiện cuộc sống của mọi người, mặc dù làm đế vương, mỗi ngày Ông vẫn làm việc vất vả, không phải ở trong ruộng chỉ người trồng trọt, thì là ở vùng hoang dã nếm thử tìm hiểu thực vật mới, có một ngày; Ông phát hiện ra một gốc cỏ nhỏ nở ra hoa vàng lá cây lúc mở lúc đóng, đây là loại Ông chưa hề thấy qua, mặc dù Ông cảm thấy nghi ngờ, nhưng vì nghĩ tới thiên hạ bách tính, Ông vẫn đem lá cây bỏ vào miệng nuốt xuống, thế nhưng lá cây kia tiến tới bụng, ruột liền bị đứt ra từng đoạn từng đoạn, Thần Nông không kịp nuốt giải dược thì đã chết. Người đời sau vì vậy mà gọi loài cỏ này là “Đoạn Trường thảo” .

Vì tạo phúc cho bách tính, hi sinh sinh mệnh của mình, người đời sau mãi mãi cũng không quên Ông được, đã tôn kính gọi Ông là Thần Nông đại đế, Viêm đế, Dược vương Bồ tát, đến hiện nay vẫn còn được mọi người thờ cúng.

Chú thích của người dịch:

Cân – Lạng: 1 cân = 18 lạng, 1 cân = 0,5 kg.

Phân – Thốn – Trượng – Xích: 10 phân = 1 thốn (tấc); 10 thốn (tấc) = 1 xích (thước) = 1/3 mét; 10 xích (thước) = 1 trượng.

Thăng – Đấu – Cân – Thạch: 10 thăng = 1 đấu; 1 cân = 0,5kg; 1 thạch tương đương 100 lít.

Thập – Bách – Ngàn – Vạn: 10, 100, 1000, 10000.

Dịch từ:

http://big5.zhengjian.org/node/42247

Nguồn: Chánh Kiến


Mời quý độc giả ghé thăm trang Chánh Kiến để cập nhật thêm nhiều bài viết hữu ích hơn.

Hình ảnh tham khảo:

Các vùng biển theo luật biển quốc tế
Các vùng biển theo luật biển quốc tế
Ngũ huyền cầm
Ngũ huyền cầm
Tranh Thần Nữ Oa tạo ra con người.
Tranh Thần Nữ Oa tạo ra con người.
Tranh vẽ Thần Nông nếm bách thảo.
Tranh vẽ Thần Nông nếm bách thảo.
Cây kê và hạt kê (Túc 粟).
Cây kê và hạt kê (Túc 粟).
Hạt dẻ (Lật 栗).
Hạt dẻ (Lật 栗).
Cao lương (Thuật 秫), còn gọi là bobo, lúa miến.
Cao lương (Thuật 秫), còn gọi là bobo, lúa miến.
Cây bắp và hạt bắp (Ngọc mễ 玉米).
Cây bắp và hạt bắp (Ngọc mễ 玉米).
Mè (Ma 麻), còn gọi là vừng.
Mè (Ma 麻), còn gọi là vừng.
Đậu nành (Đại đậu 大豆).
Đậu nành (Đại đậu 大豆).
Đậu đỏ (Tiểu đậu 小豆).
Đậu đỏ (Tiểu đậu 小豆).
Lúa mạch (Đại mạch 大麦).
Lúa mạch (Đại mạch 大麦).
Lúa mì (Tiểu mạch 小麦).
Lúa mì (Tiểu mạch 小麦).
Đoạn trường thảo.
Đoạn trường thảo.

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x