Bài 40
Nguyên văn
幼而學,壯(1)而行(2),
上致(3)君,下澤民(4)。
揚(5)名聲(6),顯(7)父母,
光(8)於前(9),裕(10)於後(11)。
人遺(12)子,金滿(13)籯(14),
我教子,惟(15)一經(16)。
勤(17)有功(18),戲(19)無益(20),
戒(21)之哉(22),宜(23)勉力。
Bính âm
幼(yòu) 而(ér) 學(xué), 壯(zhuàng) 而(ér) 行(xíng),
上(shàng) 致(zhì) 君(jūn), 下(xià) 澤(zé) 民(mín)。
揚(yáng) 名(míng) 聲(shēng), 顯(xiǎn) 父(fù) 母(mǔ),
光(guāng) 於(yú) 前(qián), 裕(yù) 於(yú) 後(hòu)。
人(rén) 遺(yí) 子(zǐ), 金(jīn) 滿(mǎn) 籯(yíng),
我(wǒ) 教(jiào) 子(zǐ) , 惟(wéi) 一(yì) 經(jīng)。
勤(qín) 有(yǒu) 功(gōng), 戲(xì) 無(wú) 益(yì),
戒(jiè) 之(zhī) 哉(zāi), 宜(yí) 勉(miǎn) 力(lì) 。
Chú âm
幼(ㄧㄡˋ) 而(ㄦˊ) 學(ㄒㄩㄝˊ),
壯(ㄓㄨㄤˋ) 而(ㄦˊ) 行(ㄒㄧㄥˊ),
上(ㄕㄤˋ) 致(ㄓˋ) 君(ㄐㄩㄣ),
下(ㄒㄧㄚˋ) 澤(ㄗㄜˊ) 民(ㄇㄧㄣˊ)。
揚(ㄧㄤˊ) 名(ㄇㄧㄥˊ) 聲(ㄕㄥ),
顯(ㄒㄧㄢˇ) 父(ㄈㄨˋ) 母(ㄇㄨˇ),
光(ㄍㄨㄤ) 於(ㄩˊ) 前(ㄑㄧㄢˊ),
裕(ㄩˋ) 於(ㄩˊ) 後(ㄏㄡˋ)。
人(ㄖㄣˊ) 遺(ㄧˊ) 子(ㄗˇ),
金(ㄐㄧㄣ) 滿(ㄇㄢˇ) 籯(ㄧㄥˊ),
我(ㄨㄛˇ) 教(ㄐㄧㄠ) 子(ㄗˇ),
惟(ㄨㄟˊ) 一(ㄧ) 經(ㄐㄧㄥ)。
勤(ㄑㄧㄣˊ) 有(ㄧㄡˇ) 功 (ㄍㄨㄥ),
戲(ㄒㄧˋ) 無(ㄨˊ) 益 (ㄧˋ),
戒(ㄐㄧㄝˋ) 之(ㄓ) 哉(ㄗㄞ),
宜(ㄧˊ) 勉(ㄇㄧㄢˇ) 力(ㄌㄧˋ)。
Âm Hán Việt
Ấu nhi học, Tráng nhi hành,
Thượng trí quân, Hạ trạch dân.
Dương danh thanh, Hiển phụ mẫu,
Quang vu tiền, Dụ vu hậu.
Nhân di tử, Kim mãn doanh,
Ngã giáo tử, Duy nhất kinh.
Cần hữu công, Hí vô ích,
Giới chi tai, Nghi miễn lực.
Tạm dịch
Còn nhỏ chăm học, lớn lên thực hành,
Trên gắng giúp vua, dưới vì lợi dân.
Thanh danh lừng lẫy, vinh hiển mẹ cha,
Rạng rỡ tổ tiên, tạo phúc con cháu.
Người thường cho con, vàng bạc đầy rương,
Ta dạy bảo con, chỉ Tam Tự Kinh.
Chăm chỉ dốc công, chơi đùa vô ích,
Dè chừng cấm giới, nên gắng nỗ lực.
Từ vựng
(1) tráng (壯): lớn, lớn lên.
(2) hành (行): nỗ lực thực hiện, thực hành, thực hiện.
(3) trí (致): hết sức, tận lực, nỗ lực, gắng sức, cố gắng, ráng.
(4) trạch dân (澤民): ban ân trạch cho bách tính, tức tạo phúc cho bách tính.
(5) dương (揚): biểu dương, tiếng tăm lừng lẫy.
(6) thanh danh (名聲): thanh danh, danh dự, danh vọng, uy tín.
(7) hiển (顯): vinh hiển, hiển đạt, hiển hách, vinh diệu, huy hoàng, làm vẻ vang, làm rạng rỡ.
(8) quang (光): vinh diệu, quang diệu, vinh quang.
(9) tiền (前): chỉ tổ tiên.
(10) dụ (裕): giàu có có thừa, chỉ phúc ấm (phúc do cha ông đem lại).
(11) hậu (後): chỉ con cháu đời sau.
(12) di (遺): lưu lại.
(13) mãn (滿): tràn đầy, dồi dào, phong phú, toàn bộ đầy đủ.
(14) doanh (籯): rương tre, cái hòm đóng bằng tre.
(15) duy (惟): vẻn vẹn, chỉ có.
(16) nhất kinh (一經): một bộ kinh thư, ở đây chỉ “Tam Tự Kinh”.
(17) cần (勤): chăm chỉ, siêng năng, cần cù, chuyên cần tiến tới.
(18) công (功): công lao, thu hoạch.
(19) hí (戲): vui đùa, chơi đùa.
(20) vô ích (無益): không có chỗ tốt, không có trợ giúp.
(21) giới (戒): phòng bị, cảnh giác, dè chừng, cấm giới.
(22) tai (哉): quá, thay (trợ từ ngữ khí, biểu thị cảm thán).
(23) nghi (宜): nên, cần phải.
Dịch nghĩa tham khảo
Một người lúc còn nhỏ cần nỗ lực học tập, sau khi lớn lên phải dốc sức thực hành, phát huy học vấn có được. Đối với bên trên có thể giúp vua, vì quốc gia dốc sức; đối bên dưới tạo phúc cho nhân dân, mang lại lợi ích cho bách tính. Như vậy không những biểu dương thanh danh của mình, đồng thời cũng làm cha mẹ vinh hiển, lại còn làm rạng rỡ tổ tiên, tạo phúc cho con cháu đời sau.
Người thường lưu lại cho con cháu vàng bạc tiền của đầy rương, mà chúng ta giáo đạo con cháu là phải nghiên cứu đọc sách “Tam Tự Kinh” để minh bạch đạo lý xử sự làm người. Chỉ cần nỗ lực học tập, nhất định sẽ có thu hoạch tốt, nếu như chỉ lo chơi đùa không chịu tiến tới, nhất định không có kết quả tốt. Cho nên chúng ta phải lấy đó làm gương, đồng thời cần phải nỗ lực mới đúng.
Đọc sách luận bút
Đây là bài học cuối cùng của sách “Tam Tự kinh”, cũng là bài khuyến khích học tập cuối cùng. Chỉ rõ ra ý nghĩa chính và mục đích của đọc sách nghiên cứu học vấn, chính là để sau này lớn lên có thể giúp vua quản lý tốt quốc gia, cứu trợ bách tính, vì lợi ích của muôn dân thiên hạ. Đây chính là mục tiêu và đại chí của Nho sinh các triều đại. Bản “Tam Tự kinh” này có ý nghĩa chính là khai sáng cho trẻ em, ý nói sau này phải nhớ kỹ mục đích đọc sách của mình, phải nghiên cứu học hỏi, chăm chỉ đọc sách thật tốt mới đúng, nếu không cả đời sẽ vất vả không thành, sống không có giá trị.
“Tam Tự Kinh” lấy “Nhân chi sơ, tính bản thiện. Tính tương cận, tập tương viễn. Cẩu bất giáo, tính nãi thiên.” làm mở đầu, chỉ ra gốc rễ giáo dục để bảo vệ bản tính thiện lương của con người, nói cách khác, người đọc sách tiếp thụ giáo dục vì để hiểu được làm người thiện lương như thế nào. Dù cho sau này lớn lên có nghiên cứu học vấn để quản trị quốc gia, cũng là dựa vào điểm này. Dựa vào đó tiến một bước nghiên cứu Tứ thư Ngũ kinh trở thành bậc quân tử có tu dưỡng phẩm hạnh đoan chính, rồi mới nghiên cứu lịch sử, mượn trí tuệ và bài học kinh nghiệm, mấu chốt trị quốc sáng suốt, lấy đạo đức cao thượng để phát huy tài trí, như thế mới có thể dốc sức vì quốc gia bách tính, cả đời tận sức ‘dĩ đức phục nhân’ (lấy đức thu phục lòng người), làm việc thiện, cứu tế muôn dân thiên hạ. Đây là chí lớn của Nho sinh, cũng là lấy thiện làm cơ điểm.
Sỡ dĩ nói “Tam Tự Kinh” là một bộ “Luận Ngữ” phổ thông, đem tôn chỉ làm giáo dục của Khổng Tử mục tiêu cuối cùng nhất, cùng với trình tự và phương pháp làm sao từng bước đi sâu vào học tập đều viết ra. Đồng thời rất là phổ thông. Khiến cho nó có thể trở thành kim chỉ nam cho việc tự học Nho học.
Vài câu cuối cùng cần nói đến là sự quan trọng của giáo dục, để cha mẹ và con trẻ đều hiểu rõ, học tập kinh thư hiểu được đạo lý làm người còn đáng quý hơn vàng. Dùng lời động viên chăm học này để làm lời kết.
Toàn bộ kinh thư chính là xoay quanh khuyến thiện cho tới khuyến học, cũng là chỗ bản chất nhất của giáo dục truyền thống, chưa từng đem kỹ năng đặt ở vị thứ nhất, ngày nay giáo dục chính là đảo lộn gốc ngọn, cho nên cả xã hội mới xuất hiện rất nhiều loạn tượng và vấn đề làm người nhức đầu, xem ra quay về truyền thống là điều bắt buộc phải làm.
Câu chuyện “Sư Khoáng khuyến học”
Sư Khoáng là một nhạc sư mù của nước Tấn. Ông rất giỏi phân biệt âm luật. Trong “Lữ Thị Xuân Thu. Trường Kiến” ghi rằng: Tấn Bình Công đúc ra một cái chuông lớn, đưa tới nhạc công giám định, đều cho rằng âm điệu là chuẩn. Chỉ có Sư Khoáng nói: “ m điệu không chuẩn, xin đúc lại một lần nữa.” Bình Công nói: “Tất cả nhạc công đều cho rằng là chuẩn.” Sư Khoáng nói: “Hậu thế có tri âm, sẽ biết chuông điệu không chuẩn.” Sau đó được nhạc sư nước Vệ là Sư Quyên chứng thực, quả nhiên chuông điệu không chuẩn.
Sư Khoáng không chỉ là một nhạc sư, ông còn thường khuyên can Tấn Bình Công, biểu đạt chủ trương trị quốc của mình. Bên dưới là câu chuyện Sư Khoáng khuyến học được ghi chép trong “Thuyết Uyển. Kiến Bản”.
Có một ngày, Tấn Bình Công hỏi Sư Khoáng: “Ta đã bảy mươi tuổi, rất muốn học tập, nhưng chỉ sợ đã là tuổi già, quá muộn.” Sư Khoáng nói: “Vậy ngài vì sao không đốt ngọn nến này?” Bình Công nói: “Bề tôi nào lại có thể tùy tiện giễu cợt quân vương như vậy?” Sư Khoáng nói: “Hạ thần mù lòa nào dám giễu cợt bệ hạ đâu? Hạ thần nghe nói, thuở thiếu thời hiếu học, tựa như mặt trời mới lên, dương khí sung túc; khi tráng niên hiếu học, tựa như nắng chiếu giữa trưa, chói chang nóng bỏng; khi tuổi già hiếu học, tựa như ánh sáng ngọn nến. Ánh sáng ngọn nến mặc dù không bì kịp ánh sáng mặt trời, nhưng trong bóng tối mà đi, so với có nến thì cái nào tốt hơn ạ?” Tấn Bình Công nghe xong, tán thưởng Sư Khoáng “Nói hay lắm!”
Câu chuyện “Gậy sắt mài thành kim may”
Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng triều Đường. Ông lúc nhỏ rất ham chơi, cảm thấy mỗi ngày trong lớp đọc sách rất buồn tẻ, cho nên thường thường bỏ sách xuống, trốn ra ngoài chơi.
Có một ngày, ông lại trốn học, một mình đi chơi bên ngoài, sau đó đi tới bờ sông, đột nhiên, hắn nhìn thấy phía trước có một bà lão ngồi xổm bên cạnh một khối đá lớn, cầm một cây gậy sắt mài lên mài xuống trên tảng đá. Lý Bạch rất tò mò, liền đi tới hỏi bà lão đang làm gì? Bà lão cười nói: “Ta đang mài một cây kim may!” Lý Bạch kinh ngạc hỏi: “Một cây gậy sắt to như thế, làm sao có thể mài thành một cây kim rất nhỏ được ạ?” Lúc này bà lão ngẩng đầu lên, nhìn Lý Bạch nói: “Đúng vậy! Cái gậy sắt này vừa thô vừa to, muốn đem nó mài thành kim là rất khó khăn. Thế nhưng ta mỗi ngày không ngừng mài mài, một ngày nào đó, ta sẽ mài nó thành cây kim thôi. Cháu nhỏ, chỉ cần hạ công phu sâu dày, gậy sắt cũng có thể mài thành cây kim đấy!”
Lý Bạch nghe lão bà nói tới đây bỗng nhiên minh bạch. Ông nghĩ: “Đọc sách và mài kim chẳng phải cũng giống nhau sao? Tại sao ta không nỗ lực học tập thật tốt?” Từ đó về sau, ông không còn trốn học nữa, lại lập chí phải đọc sách thật tốt, sau đó trở thành một nhà thơ nổi tiếng.
Tác giả: Lưu Như
Nguồn ChanhKien.Org
Video tham khảo: Sư Khoáng khuyến học
Hết bộ sách Tam Tự Kinh – Đọc sách luận bút
Cảm ơn bạn đã dành thời gian ghé thăm website Minh Chân Tướng!
Bộ sách tiếp theo: Đệ Tử Quy
Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.
Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.
Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).
Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!
Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!