Bài 30
Nguyên văn
二十傳(1),三百載(2),
梁(3)滅(4)之(5),國(6)乃(7)改(8)。
梁唐晉,及(9)漢周,
稱(10)五代(11),皆(12)有由(13)。
Bính âm
二(èr) 十(shí) 傳(chuán) , 三(sān) 百(bǎi) 載(zǎi) ,
梁(liáng) 滅(miè) 之(zhī) , 國(guó) 乃(nǎi) 改(gǎi) 。
梁(liáng) 唐(táng) 晉(jìn) , 及(jí) 漢(hàn) 周(zhōu) ,
稱(chēng) 五(wǔ) 代(dài) , 皆(jiē) 有(yǒu) 由(yóu) 。
Chú âm
二(ㄦˋ) 十(ㄕˊ) 傳(ㄔㄨㄢˊ),
三(ㄙㄢ) 百(ㄅㄞˇ) 載(ㄗㄞˇ),
梁(ㄌ一ㄤˊ) 滅(ㄇ一ㄝˋ) 之(ㄓ),
國(ㄍㄨㄛˊ) 乃(ㄋㄞˇ) 改(ㄍㄞˇ)。
梁(ㄌ一ㄤˊ) 唐(ㄊㄤˊ) 晉(ㄐ一ㄣˋ),
及(ㄐ一ˊ) 漢(ㄏㄢˋ) 周(ㄓㄡ),
稱(ㄔㄥ) 五(ㄨˇ) 代(ㄉㄞˋ),
皆(ㄐ一ㄝ) 有(一ㄡˇ) 由(一ㄡˊ)。
Âm Hán Việt
Nhị thập truyền, Tam bách tải,
Lương diệt chi, Quốc nãi cải.
Lương Đường Tấn, Cập Hán Chu,
Xưng ngũ đại, Giai hữu do.
Tạm dịch
Hai mươi lần truyền, gần ba trăm năm,
Hậu Lương diệt Đường, quốc hiệu sửa đổi.
Hậu Lương Đường Tấn, cùng với Hán Chu,
Gọi là Ngũ Đại, đều có nguyên do.
Từ vựng
(1) truyền (傳): truyền thừa. “Nhị thập truyền” ý là triều Đường truyền ngôi được hai mươi vị vua.
(2) tải (載): ý nói là năm, “Tam bách tải” ý là 300 năm. Triều Đường bắt đầu từ năm 618 đến năm 907, tổng cộng được 289 năm, gần 300 năm.
(3) Lương (梁): tên triều đại, ở đây là chỉ nhà Hậu Lương.
(4) diệt (滅): tiêu diệt.
(5) chi (之): đại danh từ, ở đây chỉ triều Đường.
(6) quốc (國): quốc hiệu.
(7) nãi (乃): là, thế là, bèn.
(8) cải (改): đổi, sửa, cải biến.
(9) cập (及): cùng, và.
(10) xưng (稱): xưng là, gọi là.
(11) Ngũ Đại (五代): chỉ 5 triều đại là (Hậu) Lương, (Hậu) Đường, (Hậu) Tấn, (Hậu) Hán, (Hậu) Chu.
(12) giai (皆): toàn bộ, đều.
(13) do (由): nguyên do, nguyên nhân.
Dịch nghĩa tham khảo
Triều Đường bắt đầu từ Cao Tổ, truyền hai mươi đời, duy trì vận nước gần 300 năm, cuối cùng bị vua Lương, Chu Toàn Trung thôn tính tiêu diệt, đồng thời đổi quốc hiệu là Lương, lịch sử gọi là Hậu Lương.
Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu trong lịch sử gọi là “Ngũ Đại”. Ngai vàng 5 triều đại này đều rất ngắn, sự hưng suy lên xuống của mỗi triều đại đều có nguyên nhân nhất định. (Bởi vì tên gọi 5 triều đại này trước đây đều đã từng xuất hiện, để tiện phân biệt cho nên đều thêm vào chữ “Hậu”)
Đọc sách luận bút
Nói về thời đại này, người ta liền nghĩ đến bài “Ngu Mỹ Nhân” còn truyền đến ngày nay: “Xuân hoa thu nguyệt hà vi liễu, vãng sự tri đa thiếu? Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong, cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung. Điêu lan ngọc thế ứng do tại, chích thị chu nhan cải, vấn quân năng hữu kỷ đa sầu, kháp tự nhất giang xuân thủy hướng đông lưu.” (Tạm dịch: Xuân hoa thu nguyệt khi nào, chuyện cũ biết bao nhiêu? Lầu nhỏ đêm qua lại gió đông, trăng sáng không đành nhớ lại nơi cố quốc. Lan điêu thềm ngọc như còn đó, chỉ là son sắc đã đổi dời, hỏi vua đã có bao nhiêu sầu, tựa như một dòng xuân thủy chảy về đông) Bài ca này chính là một bài ca nổi tiếng của Lý Dục ở thời Nam Đường vong quốc.
Thành tựu của Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục kể trên cùng với vận mệnh vua vong quốc của ông ta đã cấp cho người ta nhiều xúc động và gợi ý.
‘Từ’ vốn là lời ca được lưu hành trong yến nhạc (tiệc nhạc) khắp xã hội triều Đường, đàn hát chèn lời ca ngợi thịnh Đường, trở thành trò vui giải trí cao nhã của giới văn nhân. Sở dĩ ‘từ’ đến từ giải trí, nguyên do là lời của bài ca, là hình thức ban đầu của Tống từ sau này.
Lời ca yến nhạc thời nhà Đường nghiêm ngặt chiểu theo yêu cầu của nhạc khúc để sáng tác, chữ nghĩa câu cú dài ngắn không đồng đều của nó đều có quy cách định sẵn. Lời ca trong nhạc phủ (nơi sưu tập thơ ca dân gian và âm nhạc) trước đó vốn chưa có. Kết hợp với đặc điểm gieo vần của thơ Đường. Đến Ôn Đình Quân thời Vãn Đường, thể loại ‘từ’ mới này dần dần được định hình.
Đến thời kỳ Ngũ Đại, phồn hoa của triều Đường, lưu tại đất Tây Thục và Nam Đường. Trở thành hai căn cứ địa lớn hội tụ ‘từ nhân’ (văn nhân yêu thích từ). Nhiều văn nhân dùng giải trí để trốn tránh thống khổ, tìm kiếm an ủi, viết ra nhiều bài ca tình ái nam nữ và chia ly sầu hận. Một phái ở Tây Thục cùng với Ôn Đình Quân được gọi là “Hoa gian từ nhân” (Hoa trong giới văn nhân yêu thích từ).
Mà Lý Dục, là từ nhân có thành tựu lớn nhất thời Ngũ Đại, cũng là đại gia bậc nhất trong toàn bộ lịch sử. Ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ cha.
Cha ông là Lý Cảnh, vị vua thứ 2 thời Nam Đường, ông ta trị quốc mềm yếu vô năng, lại có tu dưỡng văn nghệ tương đối cao, từ cũng viết rất tốt, ông hiểu rõ âm luật, thư họa khéo tốt, lại có thể làm thơ. Những đặc điểm tác phong này tự nhiên đã truyền cho Lý Dục. Tính cách của Lý Dục định hình giống như cha mình, có thể cùng chí hướng ở âm nhạc, thư họa và từ, quá đam mê các loại văn nghệ, nếu đã chuyên trách nhạc phủ thì sẽ định thành một nhà nghệ thuật lớn. Mà làm vua, cần phải có khả năng dùng người, chứ không phải dùng kỹ thuật, dùng nhạc khí hay dụng cụ, đây gọi là ‘tượng tài’ (tài thợ), không thích hợp để làm vua một nước, cũng không có cách nào đảm nhiệm trọng trách trị quốc, cho nên năm 25 tuổi làm vua, mỗi năm chỉ có thể hướng về triều Tống xưng thần mà tiến cống, cầu an ở một góc nhỏ. Khi ông ta 39 tuổi, Nam Đường cuối cùng bị nhà Tống tiêu diệt, Lý Dục đã đầu hàng cũng bị giải đến Biện Kinh, ban đầu nửa là tù binh, nửa là quan sống xa quê, qua hơn hai năm bị hạ độc chết. Quả thật đáng buồn!
Khổng Tử nói: Quân tử bất khí. Là hi vọng quân tử lấy chí hướng lớn lao để trị quốc, không thể quá trầm mê vào biểu diễn âm nhạc (dân chúng thì không sao, dân gian cũng là làm nghệ thuật cao nhã và sinh hoạt giải trí.), nhạc khí cũng là khí (cũng là một loại dung cụ), trầm mê quá độ, liền ‘bất chính’ không tự mình quan tâm đến đau khổ của bách tính nữa, ảnh hưởng lớn đến hưng vong của đất nước. Làm vua một nước càng phải đặc biệt chú ý. Trước Trần Hậu Chủ của Nam Triều, Dương Quảng triều Tùy, cùng sau đó Đại Tống yếu đuối diệt vong, cũng đều là những vị vua có tài nghệ xuất chúng song lại rời bỏ bổn phận của mình. Cho nên, Lý Dục vong quốc cũng vì trước đó đã viết ra những chuyện tình ái nam nữ, hoặc chia ly sầu hận, nhưng đại biểu cho thành tựu cao nhất của Lý Dục chính là những bài từ sau này, chủ yếu là viết về sầu khổ vong quốc, hối hận và tuyệt vọng.
Như “Sóng Đào Sa”, một tác phẩm nổi tiếng khác của ông: “La khâm bất nại ngũ canh hàn, mộng lý bất tri thân thị khách” (Mùng mềm không chịu nỗi năm canh lạnh, trong mộng không biết thân là khách); “Độc tự mạc bằng lan, vô hạn giang sơn, biệt thì dung dịch kiến thì nan. Lưu thủy lạc hoa xuân khứ dã, thiên thượng nhân gian.” (Một mình chớ dựa hành lan, giang sơn vô hạn, chia ly thì dễ gặp thì khó. Nước chảy hoa rơi xuân đi mãi, thiên thượng nhân gian) Nói thẳng chân tình, cảm động lòng người rất sâu sắc.
Đây là ‘từ’, sáng tác từ nội tâm, thổ lộ chủ yếu là tiếc nuối tuổi tác, bùi ngùi việc đời biến thiên vô tình, than khóc vận mệnh, có sức cuốn hút nghệ thuật rất mạnh. Vận mệnh của ông mặc dù thật đáng buồn, nhưng người xưa tin tưởng rằng mệnh do trời định, có lẽ là vì đặt định ra Tống từ sau này mà tạo nên đời người mâu thuẫn như vậy, thân mang tài nghệ lại phải làm vua.
Câu chuyện “Lịch sử Ngũ Đại hưng vong”
Ngũ Đại Thập Quốc (từ năm 907 đến năm 960) là giai đoạn chiếm cứ ly khai kéo dài thời Vãn Đường, những vị vua khai quốc của Ngũ Đại: Chu Toàn Trung, Lý Tồn Úc, Thạch Kính Đường, Lưu Tri Viễn vốn đều là Tiết Độ Sứ, còn Quách Uy là Xu Mật Sứ. Điểm đặc biệt của Ngũ Đại là ngai vàng rất ngắn, lịch sử trước sau chỉ vỏn vẹn 54 năm, trong đó Hậu Hán là ngắn nhất, chỉ tồn tại 4 năm.
Triều đại đầu tiên của Ngũ Đại là do Chu Toàn Trung kiến lập nhà Hậu Lương. Họ Chu vốn là Đường Tuyên Võ Tiết Độ Sứ, ông ta sau khi thống nhất sơ bộ lưu vực sông Hoàng Hà, năm 907 phế Đường Ai Đế mà tự lập. Hậu Lương Thái Tổ (Chu Toàn Trung) cùng Lý Khắc Dụng ở Hà Đông vẫn duy trì liên tục tranh đoạt bá quyền, giao chiến không thôi. Chu Toàn Trung sau bị con mình giết chết, cục diện chính trị càng thêm hỗn loạn, cuối cùng Hậu Lương bị Lý Tồn Úc con của Lý Khắc Dụng tiêu diệt (năm 923).
Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên thực thi chính sách lợi nước lợi dân không ít, làm xã hội xuất hiện cục diện kinh tế gia đình, là thời hưng thịnh của Ngũ Đại, nhưng người kế vị ông sau đó lại bị con rể của ông là Thạch Kính Đường lấy 16 châu Yên Vân làm vật đánh đổi, mượn binh Khiết Đan phương bắc tiêu diệt.
Năm 936, Thạch Kính Đường nhận thủ lĩnh Khiết Đan làm cha, lại tự mình xưng là “Nhi hoàng đế” (hoàng đế con), được sắc phong làm Đại Tấn Hoàng đế, đặt kinh đô ở Khai Phong. Nhìn thấy tài nguyên của cải chảy vào Khiết Đan không dứt, con nuôi của Thạch Kính Đường là Thạch Trọng Quý không cam lòng. Lấy lý do là Thạch Trọng Quý xưng “tôn” (cháu) chứ không xưng thần đối với Khiết Đan, ý đồ muốn cải biến sự phụ thuộc vào Khiết Đan, người Khiết Đan xua binh nam hạ diệt Hậu Tấn, cũng tại Khai Phong kiến lập Đại Liêu, Gia Luật Đức Quang tự lập làm vua.
Hậu Tấn diệt vong, nhà Liêu bất lực đặt chân tại Trung Nguyên, bèn rút về phương bắc, lập Lý Từ Ích làm chủ Trung Nguyên. Năm 948 Lưu Tri Viễn ở Thái Nguyên giết chết Lý Từ Ích, đoạt Trung Nguyên, tự lập làm vua, kiến lập đế quốc Đại Hán. Con của ông ta là Lưu Thừa Hựu muốn giết đại tướng Quách Uy không thành, bị Quách Uy thay thế.
Năm 951 Quách Uy dựng nước, vẫn đóng đô ở Khai Phong, sử gọi là “Hậu Chu”. Ông tại vị 3 năm rồi mất, con nuôi Sài Vinh kế vị, là Thế Tông, thực lực quốc gia là mạnh nhất trong Ngũ Đại, ông nam chinh bắc phạt, ý đồ thống nhất toàn quốc, cuối cùng chết bệnh trong quân đội. Con ông Cung Đế lên ngôi khi mới bảy tuổi. Đại tướng triều đình Triệu Khuông Dận tạo binh biến Trần Kiều, Cung Đế thoái vị, Hậu Chu vong, Ngũ Đại đến đây kết thúc.
Đoạn lịch sử này hướng về mọi người biểu hiện ra một cái lý: chỉ dựa vào lực lượng quân sự và mưu kế, dù ai cũng không cách nào giữ vững giang sơn, vị trí đế vương không phải là ai mạnh cũng có thể cưỡng đoạt, chỉ dựa vào vũ lực cùng âm mưu đảo chính để có được chính quyền, tất nhiên sẽ không lâu dài, tất nhiên lại sẽ bị khuất phục bởi vũ lực chinh phạt lớn mạnh hơn nữa. Nhất định phải có được đức hạnh và thời cơ trời ban mà mọi người cùng hướng tới, mới có thể hoàn thành đại nghiệp, ổn định cục diện chính trị.
Tác giả: Lưu Như
Nguồn ChanhKien.Org
Xem Tam Tự Kinh – Tập 31: Tóm tắt lịch sử nhà Tống
Video tham khảo: Chu Thế Tông Sài Vinh cấm Phật giáo
Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.
Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.
Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).
Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!
Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!