Bài 12
Nguyên văn
高曾祖(1) 父而身(2) 身而子(3)子而孫(4)
自子孫 至玄(5)曾(6)乃(7)九族(8)人之倫(9)
父子恩(10)夫婦從 兄則(11)友 弟則恭
長幼序 友與朋 君則(12)敬 臣則忠
此十義(13) 人所同
Bính âm
高(gāo) 曾(zēng) 祖(zǔ), 父(fù) 而(ér) 身(shēn),
身(shēn) 而(ér) 子(zǐ), 子(zǐ) 而(ér) 孫(sūn),
自(zì) 子(zǐ) 孫(sūn), 至(zhì) 玄(xuán) 曾(zēng),
乃(nǎi) 九(jiǔ) 族(zú), 人(rén) 之(zhī) 倫(lún)。
父(fù) 子(zǐ) 恩(ēn), 夫(fū) 婦(fù) 從(cóng),
兄(xiōng) 則(zé) 友(yǒu), 弟(dì) 則(zé) 恭(gōng),
長(zhǎng) 幼(yòu) 序(xù), 友(yǒu) 與 (yǔ) 朋(péng),
君(jūn) 則(zé) 敬(jìng), 臣(chén) 則(zé) 忠(zhōng),
此(cǐ) 十(shí) 義(yì), 人(rén) 所(suǒ) 衕(tóng)。
Chú âm
高(ㄍㄠ) 曾(ㄗㄥ) 祖(ㄗㄨˇ),
父(ㄈㄨˋ) 而(ㄦˊ) 身(ㄕㄣ),
身(ㄕㄣ) 而(ㄦˊ) 子(ㄗˇ),
子(ㄗˇ) 而(ㄦˊ) 孫(ㄙㄨㄣ),
自(ㄗˋ) 子(ㄗˇ) 孫(ㄙㄨㄣ),
至(ㄓˋ) 玄(ㄒㄩㄢˊ) 曾(ㄗㄥ),
乃(ㄋㄞˇ) 九(ㄐ一ㄡˇ) 族(ㄗㄨˊ),
人(ㄖㄣˊ) 之(ㄓ) 倫(ㄌㄨㄣˊ)。
父(ㄈㄨˋ) 子(ㄗˇ) 恩(ㄣ),
夫(ㄈㄨ) 婦(ㄈㄨˋ) 從(ㄘㄨㄥˊ),
兄(ㄒㄩㄥ) 則(ㄗㄜˊ) 友(一ㄡˇ),
弟(ㄉ一ˋ) 則(ㄗㄜˊ) 恭(ㄍㄨㄥ),
長(ㄓㄤˇ) 幼(一ㄡˋ) 序(ㄒㄩˋ),
友(一ㄡˇ) 與(ㄩˇ) 朋(ㄆㄥˊ),
君(ㄐㄩㄣ) 則(ㄗㄜˊ) 敬(ㄐ一ㄥˋ),
臣(ㄔㄣˊ) 則(ㄗㄜˊ) 忠(ㄓㄨㄥ),
此 (ㄘˇ) 十 (ㄕˊ) 義 (一ˋ),
人(ㄖㄣˊ) 所(ㄙㄨㄛˇ) 同(ㄊㄨㄥˊ)。
Âm Hán Việt
Cao tằng tổ, Phụ nhi thân,
Thân nhi tử, Tử nhi tôn,
Tự tử tôn, Chí huyền tằng,
Nãi cửu tộc, Nhân chi luân.
Phụ tử ân, Phu phụ tòng,
Huynh tắc hữu, Đệ tắc cung,
Trưởng ấu tự, Hữu dữ bằng,
Quân tắc kính, Thần tắc trung,
Thử thập nghĩa, Nhân sở đồng.
Tạm dịch
Ông Sơ, Cố, Nội, tới Cha tới mình,
Mình rồi tới con, con rồi tới cháu,
Rồi từ con cháu mới đến chắt chít,
Chín thế hệ này, luân thường con người.
Cha con có ơn, vợ chồng theo nhau,
Anh thì thuận thảo, em thì cung kính,
Lớn nhỏ có bậc, bạn bè ngang nhau,
Vua thì tôn kính, tôi thì trung thành,
Mười nghĩa này đây, mỗi người đều giữ.
Từ vựng
(1)Cao tằng tổ (高曾祖): Cao hay Cao tổ là ông nội của ông nội hay còn gọi là ông Sơ. Tằng hay Tằng tổ là cha của ông nội còn gọi là ông Cố. Tổ hay Tổ phụ là cha của cha, còn gọi là ông Nội.
(2)Phụ nhi thân (父而身): Phụ hay phụ thân là cha. Thân là chính mình. Phụ thân về sau chính là mình.
(3)Tử (子): người con.
(4)Tôn (孫): tôn tử, con của con, tức là cháu.
(5)Huyền (玄): huyền tôn, con của chắt (tằng) còn gọi là chít.
(6)Tằng (曾): tằng tôn, con của cháu (tôn) hay còn gọi là chắt.
(7)Nãi (乃): là
(8)Cửu tộc (九族): quan hệ huyết thống 9 thế hệ
(9)Nhân chi luân (人之倫): thứ tự luân thường vai vế của con người.
(10)Ân (恩): ân tình
(12)Tắc (則):nên, phải, cần; nhất định phải, nhất thiết phải.
(13)Nghĩa (義):đúng với đạo lý, hợp với lẽ phải, lẽ phải làm người.
Dịch nghĩa tham khảo
Cao tằng tổ (ông Sơ) sinh ra tằng tổ phụ (ông Cố), tằng tổ phụ sinh ra tổ phụ (ông Nội), tổ phụ sinh phụ thân (Cha), phụ thân sinh ra chúng ta, chúng ta sinh ra con, con sinh ra cháu, cứ như thế từng đời nối tiếp nhau phát triển.
Người xưa gọi là Cửu tộc tức là từ ông Sơ, ông Cố, ông Nội, Cha, bản thân mình, con, cháu, chắt, chít. Bao gồm bốn thế hệ phía trên mình và bốn thế hệ phía dưới mình, là có quan hệ huyết thống và thân thiết nhất với mình. Cửu tộc đại biểu cho mối quan hệ luân thường có tôn ti trật tự có lớn có nhỏ của nhân loại.
Giữa cha con với nhau cần có ân tình, cha đối với con phải từ ái, con đối với cha phải hiếu thuận. Giữa vợ chồng cần phải thông cảm tôn trọng lẫn nhau, ở chung hòa thuận, không rời không bỏ, theo sát nhau. Còn giữa anh chị em với nhau, làm anh chị cần phải yêu thương chăm sóc em, làm em cũng cần phải cung kính với anh chị. Quan hệ trên dưới cần phải phân biệt rạch ròi, bạn bè chung sống cũng phải thành thật và tin tưởng nhau. Vua tôn trọng bề tôi, lấy lễ mà đối đãi, thì bề tôi tự nhiên cũng sẽ nhất mực trung thành không dám hai lòng. Đây là mười nghĩa lý (Thập nghĩa) làm người mà mỗi cá nhân đều phải tuân thủ thi hành.
Đọc sách luận bút
Rõ ràng, bài học này nói về Cửu tộc và Thập nghĩa. Cửu tộc, là lấy bản thân là trung tâm, trên dưới 8 thế hệ cùng huyết thống, cộng với thế hệ chính mình, là chín thế hệ họ hàng trực hệ, nên được gọi là Cửu tộc. Người xưa dạy con cái về mối quan hệ Cửu tộc này chính là muốn con trẻ ngay từ nhỏ phải biết tôn kính tổ tiên, quan tâm đến con cháu, cho nên kính già yêu trẻ là đạo lý làm người cơ bản nhất định phải hiểu khi còn nhỏ.
Sau Cửu tộc là nói đến mười đạo nghĩa chủ yếu của thân phận làm người. Với các mối quan hệ cha-con, vợ-chồng, anh-em, bạn bè lớn nhỏ, vua-tôi mà trình bày ra 10 loại thân phận khác nhau cần phải tuân theo đạo lý làm người. Bạn bè lớn nhỏ, chủ yếu nói nhắm vào mối quan hệ trong xã hội.
Người cha có bổn phận và nghĩa vụ của người cha, người con có của người con là phụng dưỡng ân nghĩa của cha mình; vợ chồng và anh em cũng vậy. Trong gia đình ai cũng biết phải làm sao để trọn đạo của mình, như vậy khi ra ngoài, đối đãi với người trên người dưới, với bạn bè, và quan hệ vua-tôi cũng đều biết đối nhân xử thế như thế nào. Lớn nhỏ cao thấp (tôn ti), chính là do mối quan hệ chức vị trên dưới và vai vế khác nhau, mỗi người tuân theo bổn phận và nghĩa vụ của mình mà thực hiện đạo lý thiện đãi người khác. Ti (thấp) ở đây không có nghĩa là ti tiện (hèn mọn), mà ý tứ là phận làm con cháu và cấp dưới sẽ hết sức trách nhiệm và lễ độ.
Câu chuyện “Tình huynh đệ”
Triều Hán có một người tên Triệu Hiếu, tên chữ là Thường Bình. Ông và người em trai Triệu Lễ đều rất yêu thương nhau.
Có năm bị mất mùa, nạn đói khắp nơi. Một nhóm cướp đã chiếm cứ vùng núi Nghi Thu. Một hôm, bọn cướp bắt được Triệu Lễ và chúng muốn ăn thịt anh. Triệu Hiếu chạy đến sào huyệt của bọn cướp, van xin: “Triệu Lễ đang bị bệnh, người lại gầy nữa nên ăn thịt sẽ không ngon. Tôi còn có chút da chút thịt, tôi sẽ thay em trai mình để cho các ông ăn thịt”. Triệu Lễ không chịu, liền nói: “Em bị họ bắt, em chết cũng là số của em, còn anh thì có tội tình gì chứ?” Hai anh em ôm nhau khóc lớn. Bọn cướp bị hai anh em Triệu Hiếu và Triệu Lễ làm cảm động, cuối cùng chúng đã thả họ ra.
Chuyện này về sau truyền đến tai vua, ông liền hạ chiếu thư phong quan cho cả hai anh em họ.
Câu chuyện xưa này chính là nói đến đạo Đễ (悌), huynh hữu đệ cung (anh thuận thảo, em cung kính), anh yêu quý bảo hộ em, là trách nhiệm của mình; em lại cảm kích anh, nguyện ý chịu bất hạnh, không liên lụy anh mình, đây cũng là tình nghĩa kính yêu anh. Đều là hiểu được chiếu cố đến đối phương, không có tư tâm, tất nhiên cảm động lòng người.
Câu chuyện “Lưu Bị ba lần mời Gia Cát Lượng”
Thời Tam Quốc, Thục vương Lưu Bị vì muốn khôi phục lại nhà Hán nên đã đi khắp nơi tìm kiếm nhân tài. Khi ông nghe nói Gia Cát Lượng là người tinh thông binh pháp, trí tuệ hơn người, nên ông dẫn Quan Vũ và Trương Phi đến Nam Dương để mời Gia Cát Lượng xuống núi giúp mình. Họ đi suốt đêm để đến Nam Dương, đúng lúc Gia Cát Lượng vừa có chuyến đi xa không còn ở nhà, ba anh em Lưu bị đành buồn bã trở về.
Không lâu, Lưu Bị nghe nói Gia Cát Lượng đã trở về Nam Dương, trong lòng vui mừng, mặc cho trời đang mưa lớn ông vẫn cùng Quan Vũ và Trương Phi đi đến Nam Dương. Khi họ đến trước cổng nhà Gia Cát Lượng, người hầu liền nói với họ rằng: “Tối qua tiên sinh lại có việc nên đi ra ngoài rồi”. Cả hai lần đều không mời được Gia Cát Lượng nên Quan Vũ và Trương Phi cảm thấy không thể kiên nhẫn được nữa, nhưng Lưu Bị lại không hề nản lòng.
Vài ngày sau, họ đến nhà tranh của Gia Cát Lượng lần thứ ba. Người hầu nói với họ: “Chủ nhân đang ngủ”. Quan Vũ và Trương Phi muốn lập tức gọi Gia Cát Lượng dậy, nhưng Lưu Bị không muốn thế mà lại lặng lẽ ở bên ngoài đợi. Lúc này lại đúng vào thời gian lạnh nhất trong năm, trời mưa to làm cái rét như cắt da cắt thịt, ba anh em Lưu Bị lạnh đến cóng người. Quan Vũ và Trương Phi đã không thể nhẫn chịu được nữa, nhưng Lưu Bị vẫn im lặng chờ đợi không nói lời nào. Một lúc sau, Gia Cát Lượng thức dậy, ông vô cùng cảm động khi nghe nói ba anh em Lưu Bị đã đợi rất lâu ở ngoài, thế rồi ông mời ba người họ vào nhà cùng bàn chuyện quốc gia đại sự.
Lưu Bị thấy kiến giải sâu sắc của Gia Cát Lượng thập phần bội phục, Gia Cát Lượng vì cảm kích thành ý và ân tri ngộ (sự trọng dụng nhân tài) của Lưu Bị, vì thế ông đã đồng ý phò tá Lưu Bị thành tựu đại nghiệp. Thậm chí khi Lưu Bị qua đời, nhận lời ủy thác của Lưu Bị, ông tiếp tục phò tá con trai Lưu Bị là Lưu Thiền, cuối cùng vất vả quá mức mà mất, thật đúng là “Cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ.” (Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi).
Lưu Bị là vua trên cao, nhưng lại có thể chiêu hiền đãi sĩ, lấy Nhân (仁) thiện đãi người khác, tấm lòng thành ý yêu chuộng nhân tài. Gia Cát Lượng là bề tôi dưới thấp, nhận được sự tôn trọng và yêu mến của vua, vì cảm ân tri ngộ, cam tâm tình nguyện hầu hạ quân vương, trung thành báo đáp. Đây cũng là điển hình làm người trong mối quan hệ thượng hạ tôn ti (trên dưới cao thấp) của quân thần (vua tôi).
Tác giả: Lưu Như
Nguồn ChanhKien.Org
Xem Tam Tự Kinh – Tập 13: Giai thoại về ngắt câu
Video tham khảo: Triệu Hiếu tranh giành đòi chết
Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.
Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.
Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).
Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!
Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!