Bài 6
Nguyên văn
首(1)孝弟(2) 次(3)見聞(4)
知某(5)數(6) 識(7)某文(8)
一(9)而(10)十(11) 十而百(12)
百而千(13) 千而萬(14)
Bính âm
首(shǒu) 孝(xiào) 弟(tì), 次(cì) 見(jiàn) 聞(wén),
知(zhī) 某(mǒu) 数(shù), 識(shì) 某(mǒu) 文(wén)。
一(yī) 而(ér) 十(shí), 十(shí) 而(ér) 百(bǎi),
百(bǎi) 而(ér) 千(qiān), 千(qiān) 而(ér) 萬(wàn)。
Chú âm
首(ㄕㄡˇ) 孝(ㄒ一ㄠˋ) 弟(ㄊ一ˋ),
次(ㄘˋ) 見(ㄐ一ㄢˋ) 聞(ㄨㄣˊ),
知(ㄓ) 某(ㄇㄡˇ) 數(ㄕㄨˋ),
識(ㄕˋ) 某(ㄇㄡˇ) 文(ㄨㄣˊ)。
一(一) 而(ㄦˊ) 十(ㄕˊ),
十(ㄕˊ) 而(ㄦˊ) 百(ㄅㄞˇ),
百(ㄅㄞˇ) 而(ㄦˊ) 千(ㄑ一ㄢ),
千(ㄑ一ㄢ) 而(ㄦˊ) 萬(ㄨㄢˋ)。
Âm Hán Việt
Thủ hiếu đễ, Thứ kiến văn.
Tri mỗ số, Thức mỗ văn.
Nhất nhi thập, Thập nhi bách,
Bách nhi thiên, Thiên nhi vạn.
Tạm dịch
Hiếu đễ học trước, tri thức học sau.
Biết được số trước, hiểu được chữ sau.
Một rồi tới mười, mười rồi tới trăm,
Trăm rồi tới ngàn, ngàn rồi tới vạn.
Tự vựng
(1)Thủ (首):đầu tiên, trước nhất.
(2)Hiếu đễ (孝弟):Hiếu thuận cha mẹ, kính nhường, yêu mến anh chị.
(3)Thứ (次):thứ hai, sau đó.
(4)Kiến văn (見聞): kiến là thấy, văn là nghe, ý là điều mắt thấy tai nghe, chỉ về những kiến thức thông thường hoặc tri thức.
(5)Mỗ (某):dùng để gọi chung chung sự vật hoặc người không biết tên hoặc có tên nhưng không nói ra tên cụ thể.
(6)Số (数):chỉ phép tính toán thời cổ đại, là một môn nghệ thuật trong lục nghệ (6 môn nghệ thuật trong nền giáo dục cổ đại gồm: Lễ (tế lễ), Nhạc (âm nhạc), Xạ (bắn cung), Ngự (cưỡi ngựa), Thư (thư pháp) và Số (tính toán).
(7)Thức (識):nhận thức, hiểu. Ở đây có ý biết trước hiểu sau; mới đầu chỉ là biết, lâu dần mới có thể hiểu.
(8)Văn (文):chỉ văn tự (chữ viết) và văn chương; cũng dùng nói chung về học vấn.
(9) Nhất (一):số 1.
(10)Nhi (而):đến, chỉ ý biến đổi.
(11)Nhất nhi thập (一而十):con số cơ bản từ 1 đến 10.
(12)Thập nhi bách (十而百):10 lần 10 là 100.
(13)Bách nhi thiên (百而千):10 lần 100 là 1000.
(14)Thiên nhi vạn (千而萬): 10 lần 1000 là 1 vạn (tức 10000).
Dịch nghĩa tham khảo
Làm người quan trọng nhất chính là trước tiên phải học tập đạo lý làm sao để hiếu kính cha mẹ, thuận thảo với anh chị; tiếp đó là bắt đầu học tập tri thức trong sinh hoạt hằng ngày. Nội dung kiến thức trong sinh hoạt hằng ngày bao gồm khả năng hiểu rõ sự biến hóa của con số, biết được cách tính toán; đồng thời có thể nhận thức chữ nghĩa, đọc văn chương.
Chúng ta áp dụng phương pháp tính toán thập phân. 1 là con số bắt đầu, 1 cho đến 10 là những con số cơ bản, tiếp sau là theo quy tắc nhân 10, 10 lần 10 là 100, 10 lần 100 là 1.000, 10 lần 1.000 là 1 vạn (tức 10.000). Như vậy cứ thế nhân lên vô cùng vô tận.
Đọc sách luận bút
Rất rõ ràng, hai câu đầu của bài này là tổng kết và nhấn mạnh ý bài trước, nêu rõ tầm quan trọng của việc hiếu kính cha mẹ và sự yêu thương anh em. Thật ra bài học trước là nói về ‘Đễ’ 悌, lấy câu chuyện Khổng Dung 4 tuổi có thể nhường quả lê lớn cho anh, chủ yếu nhấn mạnh người em nhỏ có lòng cung kính yêu thương đối với anh mình. Chữ ‘đễ’ 弟 có nghĩa là thuận theo, kính nhường anh chị, có một âm khác là ‘đệ’ 弟 có nghĩa là em trai, em gái cùng với chữ ‘tâm’ 心, tạo thành chữ Đễ 悌 (cũng có nghĩa là thuận theo, kính nhường anh chị). Cái gọi là “Đễ vu trưởng Nghi tiên tri” ở bài trước rõ ràng nhấn mạnh ý tứ khi làm em đối với anh chị phải cung kính.
Bởi vì là một cá nhân thụ ân cha mẹ và anh chị, cho nên đầu tiên phải hiểu được đạo lý, người xưa cho rằng khi cha mẹ không còn, anh cả sẽ đảm đương trách nhiệm người cha, chăm sóc cho em, anh cả như cha chính là biểu hiện của quan niệm này. Dường như chỉ nhấn mạnh yêu cầu đầu tiên là tâm kính lễ, thái độ của người làm em đối với anh, trên thực tế nó tự nhiên chứa đựng đạo lý yêu thương kính trọng lẫn nhau. Vì người làm anh chăm sóc cho em trai của mình nói chung là một điều rất tự nhiên, bởi vì lớn tuổi hơn, chắn gió che mưa cho em là tự nhiên, đây là thiên tính, cho nên mới không cần nhấn mạnh chỗ này trước tiên.
Một cá nhân trước hết phải biết cảm ân chăm sóc thân nhân của mình, đó là yêu cầu cơ bản nhất và thấp nhất để sống trên đời. Nếu bạn có thể đạt được bước đầu tiên này, thì hãy trải rộng tấm lòng này ra thiên hạ, hướng đến xã hội, hướng đến những người bình thường không thân thuộc, không nuôi dưỡng và chăm sóc mình, thậm chí cho những người xa lạ có địa vị thấp hơn bên cạnh mình, khi ấy sẽ thành người quân tử nhân nghĩa, nếu ra làm quan người ấy sẽ yêu quý chăm sóc cho dân chúng. Đây cũng là lý do tại sao vua, bậc ‘đế vương’ 帝王được gọi là ‘quân vương’ 君王 (vua quân tử), ‘quốc quân’ 國君 (bậc quân tử của đất nước), là mẫu mực của bậc quân tử trong thiên hạ.
Vì là vua, nền tảng cơ bản dựa trên tâm ân nghĩa của hiếu đễ trong gia đình, ông có thể buông bỏ tự ái, khiêm cung mà tôn kính hậu đãi người tài đức, hạ mình cư xử với người khác, càng buông bỏ tư tình, tu dưỡng và phẩm đức càng cao, như thế là bậc quân tử chân chính. Nhưng tất cả đều bắt đầu từ việc biết báo ân (đền đáp ơn) cha mẹ và anh chị. Thực ra, từ xưa Trung Quốc đã có câu nói “百善孝為先” – “Bách thiện hiếu vi tiên” (Trăm điều thiện hiếu là đầu tiên). Chữ ‘hiếu’孝này là căn bản của căn bản làm người.
Vì vậy, bài học này nói rất rõ ràng, làm người trước tiên phải làm được hai chữ hiếu đễ, làm người hiểu được cách thể hiện lòng cảm ân, là nền tảng làm người, hiểu được đạo lý căn bản, tiếp đó học các loại kỹ năng, hiểu rõ các loại kiến thức và kinh nghiệm, đó mới là chính đạo. Nếu không, có tài mà không có đức, sẽ dễ trở thành kẻ tiểu nhân phá hoại. Thủy chungvẫn là nhấn mạnh tầm quan trọng của đức.
Câu chuyện về vua Thuấn
Theo câu chuyện truyền thuyết thời thượng cổ, Thuấn là một người vô cùng hiếu thuận. Cha của Thuấn là một người mù tên là Cổ Tẩu, mẹ của Thuấn qua đời từ khi Thuấn còn nhỏ. Sau đó, cha Thuấn lấy thêm một người vợ, chính là mẹ kế của Thuấn, tính tình của mẹ kế rất bất hảo, đối với Thuấn không những không thương yêu còn gây khó khăn đủ đường.
Không lâu sau, mẹ kế sinh được một người con trai và đặt tên là Tượng, cha và mẹ kế hết mực yêu chiều Tượng. Mặc dù thường ngày Thuấn rất hiếu thuận với cha mẹ, yêu thương em trai, nhưng mẹ kế và em trai lại rất ghét Thuấn, còn cha Thuấn thì chỉ biết nghe theo phía hai mẹ con Tượng, không phân biệt đúng sai mà thường đánh mắng Thuấn.
Do sức khỏe của cha không tốt, cộng với em trai còn nhỏ tuổi, cho nên khi Thuấn còn rất nhỏ đã một mình ở dưới chân núi Lịch Sơn làm ruộng để nuôi sống cả nhà. Theo truyền thuyết, vì hiếu tâm của Thuấn làm cảm động Trời cao, nên ngay cả voi cũng đến giúp Thuấn làm ruộng, chim bay đến giúp nhổ cỏ. Dù vậy nhưng cha, mẹ kế và em trai vẫn không thích Thuấn, thường tìm cơ hội hãm hại ông, có ba lần suýt chút nữa là Thuấn đã mất mạng.
Thuấn cũng biết rõ cảnh ngộ của mình nên luôn luôn cẩn thận, do đó ông luôn nghĩ được cách tránh khỏi những lần hãm hại của họ, và cũng không để bụng chút nào. Ông không có chút oán hận nào về những chuyện xảy đến với mình, lặng lẽ chịu đựng những đối đãi bất công, ngược lại ông còn luôn nghĩ mọi cách để trấn an cha mẹ và làm cho họ vui vẻ. Bởi vì đức hạnh của Thuấn thực sự đáng quý, cho nên khi ông mới 20 tuổi mà thanh danh đại hiếu đã lan xa.
Về sau, khi vua Nghiêu hiền minh tìm người tài đức để kế vị, mọi người liên tiếp tiến cử Thuấn. Mặc dù vua Nghiêu tiếp thụ tiến cử của chư hầu khắp nơi, nhưng vì thiên hạ bách tính, nên ông vẫn muốn đích thân thử thách Thuấn. Thế là vua Nghiêu bèn gả hai người con gái Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn làm vợ; lại còn để cho Thuấn qua lại tiếp xúc với chín người con trai của ông, đứng bên ngoài quan sát xem Thuấn đối đãi với vợ và chín người anh em ra sao, chính là khảo nghiệm về “Đễ” “悌”, về đức thuận thảo với anh em trong nhà như thế nào.
Ngoài ra, vua Nghiêu còn để Thuấn lấy mỹ đức hiếu đễ dạy bảo cho bách tính, mọi người dân đều nghe theo mà không làm trái; Thuấn xử lý tất cả chính vụ đều vô cùng thỏa đáng, các quan đều phục tùng; vua Nghiêu lại ra lệnh cho Thuấn tiếp đãi chư hầu bốn phương đến triều đình diện kiến, các chư hầu đều cung kính nghe theo Thuấn. Cuối cùng, vua Nghiêu sai Thuấn bảo vệ rừng núi, mặc dù Thuấn trong rừng núi gặp phải mưa to gió lớn nhưng vẫn có thể phân rõ phương hướng, không bị lạc đường.
Kết cuộc vua Nghiêu thấy được Thuấn là người có đức hạnh cao thượng và trí tuệ phi phàm, liền nhường ngôi vua lại cho Thuấn.
Đạo hiếu của ông là ‘dĩ đức báo oán’, vô tư vô hối (không vì mình không hối hận), chính là đức đại hiếu. Cha mẹ yêu ta, nói hiếu kính cũng không khó, nhưng cha mẹ chán ghét ta, ngược đãi ta, thậm chí hại mệnh ta, đối xử như mẹ kế, vẫn không ngần ngại chút nào, chí khí cao như thế, chính là để cấp cho dân tộc Trung Hoa, lưu lại phong phạm của bậc quân tử cần có và truyền thống lấy hiếu trị quốc.
Vì vậy, câu chuyện về vua Thuấn thời thượng cổ ở trên đây, cho thấy đạo lý làm người mà Nho gia giảng, đạo lý ‘trì gia trị quốc’ (giữ nhà trị quốc), đạo lý ‘dĩ hiếu trị quốc’ (lấy hiếu trị quốc), đều xuất phát từ sự hướng dẫn và giáo hóa của các bậc thánh vương thời thượng cổ, chứ không phải bản thân Nho gia bỗng nhiên mà có. Hơn nữa làm sao kính người trên làm sao đãi người dưới, đã nói rất rõ ràng, rất toàn diện, đối đãi bất công thì dĩ đức báo oán, đối đãi em mình thì hết lòng chăm sóc. Nhấn mạnh ý chí và trách nhiệm vô tư to lớn, chứ không phải thứ tình riêng hẹp hòi ‘người tốt với ta, thì ta sẽ tốt với người’.
Đối với con cái mà nói, khác với bài học trước chủ yếu nhấn mạnh kính ý và cảm ân của con em đối với cha mẹ và anh chị, bài học này lại là câu chuyện mẫu mực và đáng tham khảo về cách làm người anh, người chị.
Tác giả: Lưu Như
Nguồn ChanhKien.Org
Xem Tam Tự Kinh – Tập 7: Hoàng Đế và xe chỉ nam
Video tham khảo: Câu chuyện về vua Thuấn
Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.
Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.
Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).
Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!
Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!