Tổ tiên cứu người trong nguy nan, tích lại phúc đức cho con cháu

to tien tich duc minhchantuong

Phật gia giảng: “Thiện ác rốt ráo đều có báo, nhân quả tất đến chớ bận tâm” (Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, tòng lai nhân quả bất dụng mang). Trong cuốn “Thái Thượng cảm ứng thiên” của Đạo gia lại nói: “Họa và phúc đều không có cửa mà là do lòng người tự gây. Thiện ác có báo ứng, như bóng theo hình” (Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình). Tích lại phúc đức cho con cháu.

Người nào nhân hậu thiện lương, giúp đỡ người lúc nguy nan, nhất định sẽ được ông trời chiếu cố. Đó là lý do người xưa thường nói cần tích đức hành thiện. Trong sử sách lưu ghi lại rất nhiều câu chuyện liên quan đến việc tích đức hưởng phúc báo.

Cha lấy bạc cứu người, con thi đỗ Trạng Nguyên

Trâu Trung Ỷ, tự là Vu Độ, người Vô Tích, Giang Tô. Ông là vị Trạng Nguyên thứ tư kể từ khi triều Thanh nhập quan, là Trạng Nguyên thứ hai của phủ Thường Châu, Trạng Nguyên đầu tiên của huyện Vô Tích đời nhà Thanh. 

Ông sinh vào năm Thiên Khải thứ 3 thời nhà Minh (năm 1623). Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, được cha là Trâu Đoái Kim nuôi nấng đến khi trưởng thành. Khi còn nhỏ, Trâu Trung Ỷ theo cha ẩn cư tại Thính Tuế Đường ở núi Võ Khang, huyện Đức Thanh tỉnh Chiết Giang, chuyên tâm dùi mài kinh sử.

Trâu Đoái Kim không những có học thức uyên bác, mà còn là người tốt bụng, hay giúp đỡ người khác. Vào thời Hoàng đế Sùng Trinh đời nhà Minh, năm Canh Ngọ (1630), ông đến Nam Kinh tham gia kỳ thi Hương, khi đang đi thuyền đến Kinh Khẩu (nay là Trấn Giang, Giang Tô) thì có một cơn cuồng phong bất ngờ ập đến khiến hầu hết các con thuyền đều bị lật, rất nhiều người không may rơi xuống nước. 

Trâu Đoái Kim lập tức mở rương hành lý của mình, chỉ vào số bạc bên trong và nói lớn: “Cứu được một người sẽ được thưởng 10 lượng bạc”. Thế là người trên bờ lũ lượt nhảy xuống nước cứu người, cuối cùng tất cả mọi người đều an toàn vào bờ.

Ông vui vẻ thực hiện lời hứa của mình, nhưng cũng vì thế mà lộ phí của ông chẳng còn mấy xu dính túi.

Sau đó, Trâu Đoái Kim thuận lợi vượt qua kỳ thi Hương. Còn con trai ông là Trâu Trung Ỷ đã đứng đầu bảng và đỗ Trạng Nguyên trong kỳ thi Đình vào năm Thuận Trị thứ 9 đời nhà Thanh (1652), được phong làm Sử quan trong Hàn Lâm Viện, hàng Lục phẩm.

Tuy nhiên, Trâu Trung Ỷ sau một thời gian làm quan, đã từ quan về ở ẩn rồi qua đời ở tuổi 32. Tương truyền, ông là một tăng nhân ở chùa Kim Sơn chuyển sinh, đến nhân gian mấy chục năm để độ kiếp rồi chuyển thế tu hành. Các con trai của ông là Hiển Cát, Khanh Sâm đều giỏi thư hoạ, cháu trai ông là Trâu Nhất Quế đỗ Bảng nhãn trong kỳ thi năm Đinh Mùi thời Ung Chính, chắt của ông là Dịch Hiếu, đỗ Thám khoa trong kỳ thi năm Đinh Sửu đời vua Càn Long. Tổ tiên tích âm đức, con cháu đời sau hưởng phúc lớn, quả chớ có sai.

tích lại phúc đức cho con cháu
Bức tranh “Phảng cổ sơn thuỷ” của Châu Côn triều Minh. (Ảnh: Tài sản công)

Quản ngục cứu ngàn người, con cháu quan vận hanh thông

Thời hoàng đế Khang Hy triều đại nhà Thanh, có một người tên là Trần Lý, người Sơn Âm, đảm nhận chức Ti ngục (cai ngục) ở phủ Bình Lạc, Quảng Tây. Vào thời Loạn Tam Phiên, ông đã giải cứu và trả tự do cho hàng ngàn phụ nữ bị bắt làm nô lệ. Vì sợ quân phiến loạn phát hiện và hạch tội, ông đã đốt nhà của mình, tạo hiện trường giả rằng bản thân đã chết, rồi lặng lẽ ẩn náu. Mãi đến khi cuộc nổi loạn lắng xuống, ông mới trở về và vẫn bình an vô sự.

Vì ông tích được đại âm đức nên con cháu đời sau có đường quan vận rất hanh thông. Con trai cả của ông là Trần Doãn Cung, đỗ tiến sĩ năm Khang Hy thứ 33, làm đến chức Biên tu, Tả thiêm đô ngự sử ở Hàn Lâm Viện. Con trai thứ hai của ông, Trần Đình Luân, đỗ tiến sĩ vào năm Khang Hy thứ 39, được bổ nhiệm làm Tri phủ Lư Châu, An Huy. Con gái của Trần Đình Luân trở thành phi tần của Hoàng đế Càn Long, sau được tôn làm Phương phi. 

Cháu nội của ông, Trần Tề Tương, vào năm Ung Chính thứ 7, được bổ nhiệm là Ngự sử Cửu Nam Đạo, Quảng Nhiêu, Giang Tây. Cháu trai Trần Tề Duệ làm Thông phán phủ Trấn Giang, Giang Nam. Cháu trai Trần Tề Hiền làm Tri châu ở Phu Châu, Thiểm Tây. Cháu trai Trần Tề Phương làm Tri huyện ở huyện Giám Lợi, Hồ Bắc. Cháu trai Trần Tề Thứ làm Trực lệ ti viên ngoại bên Hình bộ. Cả bốn người này đều đỗ cử nhân trong khoa thi năm Ung Chính thứ nhất. Còn có người cháu Trần Tề Thụ, làm Ân Ấm Sinh, cháu Trần Tề Thân, đỗ tiến sĩ năm Càn Long thứ 17, đảm nhận chức Biên tu trong Hàn lâm viện. 

Còn về đời chắt của Trần Lý, có Trần Thánh Thuỵ là Lang trung Hình bộ Thiểm Tây; Trần Thánh Thời là Giám sát Ngự sử Sơn Đông; Trần Thánh Truyền là Huyện thừa huyện Đài Loan, Phúc Kiến, gặp nạn khi đi dẹp loạn đám tặc phỉ Lâm Sảng Văn, được ban chức Vân kị; Trần Thánh Tu làm quan đến chức Thông phán phủ Vân Nam. Tất cả họ đều đỗ cử nhân.

Ngoài ra còn có Trần Quảng Ninh, chắt của Trần Lý, từng làm đến chức Tổng binh ba trấn Thọ Xuân, Duyễn Châu và Đằng Việt. Người bạn nối khố tên Tiền Vịnh của ông còn ghi chép lại tổ đức của Trần gia trong cuốn “Lý viên tùng thoại”.

Cha cứu trăm phụ nữ, các con đỗ tú tài

Vào thời Hoàng đế Khang Hy triều Thanh, có ba nhân vật nổi tiếng lẫy lừng trong gia tộc họ Từ: Từ Càn Học, Từ Bỉnh Nghĩa và Từ Nguyên Văn, được mệnh danh là “Côn Sơn Tam Từ”. Anh cả Từ Càn Học và anh hai Từ Bỉnh Nghĩa lần lượt đỗ Thám khoa trong kì thi Tiến sĩ vào năm Khang Hy thứ 9 (1670) và năm Khang Hy thứ 12 (1673). Anh ba Từ Nguyên Văn đỗ trạng nguyên năm Thuận Trị thứ 16 (1659). Ba anh em đều làm quan lớn trong triều. Hoàng đế Khang Hy từng đích thân đề tặng chữ cho Từ Càn Học: “Quang diễm vạn trượng, Nhất đại Đại Nho, Bác học minh biện”, cũng tặng chữ “Trạc tú thanh lưu” cho Từ Bỉnh Nghĩa.

lau cac son thuy do minhchantuong
Một phần bức tranh “Lâu các sơn thuỷ đồ” của Viên Diệu đời nhà Thanh. (Ảnh: Tài sản công)

Ba anh em họ Từ có thể đạt được những thành tựu như vậy, phần nhiều là nhờ ông và cha họ đã tích luỹ nhiều âm đức. Tổ phụ (ông nội) của họ, Từ Vĩnh Mỹ sống vào triều Minh, là người Thường Thục, làm trưởng quản văn thư dưới quyền của Lại bộ thượng thư Nghiêm Nột. Thời đó, đất Ngô ở Giang Nam xảy ra lũ lớn, Từ Vĩnh Mỹ đã dâng tấu thỉnh cầu cứu trợ thiên tai, nhưng Nghiêm Nột lúc bấy giờ còn do dự chưa dám thượng tấu Hoàng đế nên tìm người đến xem quẻ. Từ Vĩnh Mỹ đã nói riêng với thầy bói rằng, muốn thượng tấu thì xin gieo quẻ “Cát”. Nghiêm Nột khi nghe thầy bói gieo được quẻ “Cát”, mới quyết định bẩm báo hoàng thượng. Triều đình hạ lệnh cứu trợ thiên tai, đã cứu sống vô số người. 

Từ Vĩnh Mỹ sinh được một con trai là Từ Khai Pháp, tự là Từ Niệm. Từ Khai Pháp tính tình chính trực, sống nhân nghĩa, ghét cái ác, hay làm việc thiện.

Ví dụ, có một người ở Kim Khê nợ Từ gia một khoản tiền rất lớn, nhưng nhà này nghèo đến nỗi cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, không thể nào trả nổi nợ. Từ Khai Pháp đã không do dự lấy khế ước ghi nợ đốt trước mặt họ và xoá bỏ món nợ nần. Tại huyện Thượng Hải, hai nhà Vương và Diệp lập hôn ước, nhưng sau đó nhà họ Vương rơi vào khốn đốn, Diệp gia muốn hối hôn. Sau khi Từ Khai Pháp phát hiện, ông đã đứng ra chủ trì công đạo, nói rằng sẽ trả mọi phí tổn lễ thành thân cho Diệp gia, nhưng chuyện hôn nhân này hai nhà nhất quyết không được từ bỏ, vì thế Diệp gia không còn lời nào để nói. Trong huyện Học có học sinh vì gia đình nợ quan phủ tiền và ngũ cốc, mà bị kiện lên quan. Từ Khai Pháp đã giúp trả nợ để họ thoát khỏi nạn tù đày.

Nhân lúc rối ren thay đổi triều đại, một viên tướng của trấn đã giả trang thành thổ phỉ bắt cóc hàng trăm phụ nữ, giam giữ họ trong đại trạch viện bỏ trống của Từ gia, nghiêm lệnh cho Từ Khai Pháp trông coi họ. Nhưng ông đã thả toàn bộ và sau đó phóng hoả đốt nhà. Khi viên tướng kia đến hỏi, Từ Khai Pháp nói rằng hoả hoạn không thể phòng bị được, tất cả họ đã tử vong trong biển lửa. Viên tướng nọ cũng hết cách liền bỏ đi.

Cao tổ từng cứu hàng chục nghìn người, Diêu Văn Điền hưởng phúc âm

Diêu Văn Điền (1758-1827), tự Thu Nông, quê ở Quy An (Ngô Hưng, Chiết Giang). Năm Gia Khánh thứ 4 triều Thanh (1799), ông đỗ Trạng Nguyên, làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư. Ông nghiêm cẩn học hành, thanh liêm chính trực, một đời chánh khí, là một học sĩ nổi tiếng thời Gia Khánh triều Thanh.

Đêm trước khi đỗ Trạng Nguyên, ở kinh thành có người mộng được lên trời, nhìn thấy ở trên cổng trời vàng kim viết tám chữ lớn “Nhân tâm dịch muội, Thiên lý nan khi”, ý nghĩa là nhân tâm dễ u mê, nhưng ý Trời thì khó che lấp. Nguyên lai là cao tổ của Diêu Văn Điền khi làm quản ngục ở Giang Nam, từng cứu trên vạn người, tích được rất nhiều âm đức. Thượng Thiên đều thấu tỏ, nhờ đó con cháu của vị cao tổ họ Diêu mới nhận được hậu báo này.

Những câu chuyện có thật này là để nói với thế nhân rằng, chăm hành thiện sự, phúc báo sẽ không hẹn mà đến. Tích lại phúc đức cho con cháu.

Tác giả: Lưu Hiểu

BTV EPOCH TIMES HOA NGỮ

Lý Tịnh Thành biên tập theo Epoch Times Tiếng Việt
Minh Phương biên dịch
Quý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ


Mời quý độc giả ghé thăm trang Epoch Times Tiếng Việt để cập nhật thêm nhiều bài viết hữu ích hơn.

Minh Chân Tướng là trang cung cấp những bài viết về Văn hóa Truyền thống, quý đọc giả sẽ tìm thấy bài viết hữu ích nhằm khơi gợi những quy phạm, tiêu chuẩn Đạo đức, Văn hóa chính thống cũng như toàn bộ nền Văn hóa Thần truyền huy hoàng 5000 năm lịch sử.

Minh Chân Tướng sử dụng nguyên tắc Chân Thành và Thiện Lương làm kim chỉ nam trong suốt hành trình của mình. Chúng tôi chú trọng tính nhân văn, những bài học lịch sử và văn hóa truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho mỗi người, mỗi nhà và cho xã hội.

Minh Chân Tướng là kênh thông tin phi lợi nhuận, chúng tôi cam kết không quảng cáo (từng bài viết quý vị đọc trên Minh Chân Tướng sẽ không bao giờ hiển thị bất kỳ một quảng cáo nào).

Cảm ơn Quí độc giả đã thường xuyên theo dõi và ghé thăm Minh Chân Tướng!


Email: [email protected] đã sẵn sàng nhận những phản hồi từ bạn!

0 0 votes
Article Rating
Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments
0
Bình luậnx
()
x